Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 3
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VÀ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH 7
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH 7
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN 20
Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY LỮ HÀNH Ở HẠ LONG (KHẢO SÁT QUA CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH HẠ LONG, CÔNG TY DU LỊCH & DỊCH VỤ HỒNG GAI, CÔNG TY DU LỊCH THANH NIÊN) 31
2.1. BỐI CẢNH CHUNG TÁC ĐỘNG ĐẾN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH TẠI HẠ LONG 31
2.2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CỦA CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH Ở HẠ LONG 43
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOÀN THIỆN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH Ở HẠ LONG 65
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH Ở HẠ LONG 65
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẠ LONG 69
3.3. GIẢI PHÁP CƠ BẢN CHO VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP 73
3.4. KIẾN NGHỊ 82
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
Không có một công thức chung nào cho việc vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc vào từng công ty bởi văn hóa Việt vốn phong phú và đa dạng, cách nhìn nhận và tiếp cận nền văn hóa dân tộc khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của mỗi người. Tuy vậy, để có thể xây dựng một nền văn hóa bền vững vì con người trong công ty thì không thể bỏ qua yếu tố bản sắc văn hóa dân tộc, vốn là "những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước". Nhận dạng một số bản sắc văn hóa dân tộc trong tính cách con người như: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo.
Mặt khác, trong điều kiện môi trường kinh doanh không ngừng biến động, cộng với sự tiến độ như vũ bão của khoa học công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) trên thế giới, để có thể thích nghi nhanh chóng và mở rộng thị trường, các công ty du lịch lữ hành cần xây dựng cho mình một nền văn hóa hiện đại. Đó chính là việc sử dụng các yếu tố của công nghệ thông tin cho việc quảng bá thương hiệu, quảng bá sản phẩm dịch vụ và các tuor du lịch cho khách hàng trong nước và cả quốc tế, từng bước hiện đại hóa công nghệ marketing cho các sản phẩm của công ty, đồng thời phát huy được sự năng động và sáng tạo của các thành viên trong công ty.
3.3.3.5. Tăng cường đầu tư vật chất cho xây dựng văn hóa doanh nghiệp
Để từng thành viên thấm nhuần được tinh thần của triết lý kinh doanh, khẩu hiệu chung của các công ty lữ hành đó là "nhắc nhở, làm gương" của người lãnh đạo chỉ là một cách thức. Cách thức khác hữu hiệu không kém là gắn những văn bản, triết lý, với hoạt động hội hè, vui chơi giải trí của nhân viên, chế độ lương thưởng, đồng phục, trang thiết bị làm việc, những nghi thức trong công ty. Đó là những yếu tố thuộc về lớp bề nổi của văn hóa doanh nghiệp và rất dễ cảm nhận vì tính hữu hình của chúng.
Những hoạt động hội hè để tạo thành nét riêng của các công ty lữ hành phải bảo đảm hai yếu tố: Thứ nhất, được tổ chức định kỳ và đều đặn hàng năm với mục tiêu nâng cao tinh thần doanh nghiệp và gây dựng niềm tin tự hào cho mọi thành viên; thứ hai là độc đáo (có ý nghĩa là sáng tạo và khác biệt so với các công ty khác).
Có thể nói, tham gia vào các hoạt động tập thể với công ty là cơ hội tốt để các nhân viên cảm nhận được "bầu không khí gia đình trong doanh nghiệp" và thấy gắn bó hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn trước những vấn đề chung của công ty.
Tăng cường đầu tư cho văn hóa là việc làm rất cần thiết không chỉ riêng với những công ty đã có thương hiệu và đạt được tốc độ phát triển cao. Có quan điểm cho rằng "chỉ nên chú trọng văn hóa khi công ty đã lớn mạnh, đã ăn nên làm ra" là hoàn toàn không đúng. Thực tế đã chứng minh, con người lao động và cống hiến không chỉ vì lợi ích vật chất mà còn vì những yếu tố tinh thần, vì tình cảm gắn bó với công ty. Để tạo ra những động lực phi vật chất đó thì nhất thiết các công ty lữ hành cần có một nền văn hóa mạnh. Người lãnh đạo công ty cần có ý thức coi đây là những đầu tư cần thiết cho sự phát triển của công ty, không chỉ nên chú trọng đến kết quả kinh doanh và coi những chỉ tiêu về văn hóa cho người lao động là phù phiếm và tốn kém, vì đây chính là chất keo để gắn kết người lao động với công ty, tạo nền móng cho sự phát triển lâu dài của công ty.
3.4. KIẾN NGHỊ
3.4.1. Một số kiến nghị về các chính sách phát triển du lịch ở thành phố Hạ Long.
- Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hoá phát triển du lịch.
- Xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch gồm: dạy nghề, đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học về du lịch.
- Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực du lịch; đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo theo chuẩn hoá quốc gia cho ngành du lịch; gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo với nghiên cứu để nâng cao chất lượng giảng dạy và trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ du lịch tiên tiến phục vụ phát triển du lịch bền vững, tạo bước phát triển mới có hiệu quả trong nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học và công nghệ vào hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch.
- Đẩy mạnh xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch với các hình thức linh hoạt; phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành; tranh thủ hợp tác quốc tế trong hoạt động xúc tiến du lịch ở trong và ngoài nước, từng bước tạo dựng và nâng cao hình ảnh du lịch Việt Nam trên trường quốc tế; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và của nhân dân về vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.4.2. Một số kiến nghị với các công ty du lịch lữ hành.
Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, Quảng Ninh có nhiều lợi thế để phát triển các sản phẩm du lịch bền vững như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng gắn với các khu bảo tồn, di tích lịch sử... hướng người dân sống trong khu vực cải thiện sinh kế nhằm giảm áp lực của cộng đồng đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, đối với Quảng Ninh, việc xây dựng các sản phẩm du lịch mới nói chung còn cùng kiệt nàn, một số sản phẩm du lịch chưa thực sự hướng tới sự phát triển bền vững. Hiện nay, ngành du lịch Quảng Ninh cũng đang tiến hành khảo sát, thu hút các nhà đầu tư du lịch, công ty lữ hành phát triển các sản phẩm du lịch mới tại các vùng nông thôn, miền núi, mở rộng các hoạt động du lịch sinh thái tại sông, hồ, bờ biển nhằm kéo dài thời gian lưu trú, tăng khả năng chi tiêu của khách mà không làm phá vỡ cảnh quan môi trường du lịch vốn có. Đồng thời thực hiện các nhiệm vụ nâng cao chất lượng du lịch, giữ gìn môi trường cảnh quan, làm tốt công tác quy hoạch, quản lý xây dựng, tăng cường quản lý nhà nước, định hướng phát triển du lịch theo hướng nâng cao chất lượng.
Việc phát triển du lịch phải làm sao không phá vỡ không gian sống, đảm bảo sự phát triển bền vững, gắn kết với chính người dân địa phương và cuộc sống hàng ngày của họ, là một bộ phận không thể tách rời của sự hấp dẫn du khách đến Quảng Ninh. Theo đánh giá của các công ty du lịch lữ hành, hiện nay, du khách quốc tế thường chọn những điểm du lịch không bị ô nhiễm môi trường gắn với du lịch sinh thái... đến tham quan, nghỉ dưỡng. Họ sẵn sàng trả chi phí cao để mua các sản phẩm du lịch bền vững hơn các sản phẩm du lịch truyền thống khác.
Hy vọng, với định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững, trong thời gian tới, du lịch Quảng Ninh sẽ tạo ra được những sản phẩm du lịch độc đáo, phong phú thu hút ngày càng nhiều du khách.
KẾT LUẬN
Văn hóa là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, bao trùm lên mọi hoạt động của xã hội loài người, hay nói theo E.Heriot: "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên lãng đi - đó là Văn hóa". Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tầm quan trọng của văn hóa ngày càng được khẳng định vững chắc. Ngày nay, chính chính phủ các nước đều ý thức rằng chỉ có thể đạt được sự phát triển kinh tế bền vững trên nền tảng một xã hội có văn hóa chính là một xã hội thu nhỏ, nếu muốn đứng vững trước sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, nhà kinh doanh không thể chỉ tự trang bị bằng kiến thức, công nghệ, mà cần cả một nền tảng văn hóa vững chắc, hay nói chung là cần xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Ở Việt Nam vấn đề này đang trở nên cấp thiết. Việt Nam là một quốc gia có một nền văn hóa lâu đời nhưng chúng ta chưa dành sự quan tâm thích đáng cho việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Bước vào thế kỷ XXI, hòa mình vào xu thế phát triển chung của thế giới, các doanh nghiệp đều lưu tâm nghiên cứu vấn đề này để nâng cao ý thức văn hóa và tạo nguồn lực cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhâp khu vực và thế giới. Tuy nhiên, văn hóa doanh nghiệp và việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp là những vấn đề phức tạp, còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của đề tài này cho thấy, nhận thức về văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp còn mơ hồ, số doanh nghiệp thực sự quan tâm đầu tư cho xây dựng văn hóa doanh nghiệp còn ít ỏi và thiếu kiến thức, kinh nghiệm cần thiết. Với những phương hướng và giải pháp đea ra trong đề tài này, tác giả hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào tiến trình xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp du lịch lữ hành trên địa bàn thành phố Hạ Long nói riêng và các doanh nghiệp ở Quảng Ninh nói chung.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, tinh hình kinh tế, văn hóa, xã hội có những bước phát triển rõ rệt. Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), nước ta chuyển dần từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chính sách mở cửa, thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước cũng như nước ngoài, cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu quan trọng. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và thu được nhiều kết quả tốt, kinh tế tiếp tục được phát triển và duy trì nhịp độ tăng trưởng khá, hệ thống cơ sở hạ tầng được tăng cường, các ngành kinh tế, trong đó có các ngành dịch vụ đều có bước phát triển mới tích cực. Diện mạo các đô thị được chỉnh trang, xây dựng hiện đại hơn, tiếp cận và thích nghi với lối sống công nghiệp. Nông thôn cũng có những biến đổi sâu sắc, sản xuất lương thực và thực phẩm tăng mạnh và ổn định, dự trữ lương thực được đảm bảo và là một trong những nước xuất khẩu gọa lớn nhất thế giới.
Được mệnh danh là một ngành công nghiệp không khói, ngành du lịch cũng đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của cả dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước”. Với những định hướng như vậy, trong những năm qua ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, hội nhập khu vực và thế giới của đất nước.
Là một tỉnh nằm ở phía Đông Bắc của tổ quốc, Quảng Ninh có những nguồn tài nguyên du lịch quý giá: đó là cảnh quan vịnh Hạ Long, 2 lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, đó là những bãi tắm đẹp như Titop, Trà Cổ, Quan Lạn...cùng với đó là hàng loạt các công trình văn hóa như Chùa Yên Tử, chùa Quỳnh Lâm, đền Cửa Ông, đình Phong Cốc, Trà Cổ, Quan Lạn.... Hàng năm, Quảng Ninh thu hút hàng triệu lượt khách du lịch đến tham quan và nghỉ dưỡng, nguồn thu từ du lịch đạt hàng ngàn tỉ đồng. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020, ngành du lịch được đặc biệt coi trọng với mục tiêu đạt khoảng 4 triệu lượt khách, doanh thu đạt trên 5000 tỷ đồng vào năm 2020. Để làm được điều này, đòi hỏi chính quyền và nhân dân trong tỉnh phải có những chính sách, biện pháp hợp lý, phải có sự phối hợp đồng đều giữa các cơ quan, ban ngành trong tỉnh, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Với vai trò là cầu nối giữa khách du lịch với các điểm tham quan và các dịch vụ phục vụ, các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành cần có những chiến lược phát triển hợp lý và lâu dài. Một trong những giải pháp được đưa ra, đó là thực hiện vấn đề văn hóa trong kinh doanh, nhằm mục tiêu xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, hòa đồng, tạo điều kiện tốt nhất cho mỗi cán bộ nhân viên phát huy năng lực và vai trò của mình, đem lại lợi ích tốt nhất cho công ty và phục vụ tốt nhất cho khách hàng của mình. Đề tài: “Văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long” được thực hiện nhằm mục đích như vậy.
2. Tình hình nghiên cứu
Văn hóa doanh nghiệp là một lĩnh vực không mới đối với nhiều nước phát triển trên thế giới, đặc biệt là tại các nước phương Tây. Ở Việt Nam, vấn đề này được đề cập muộn hơn. Năm 1995, Trung tâm KHXHNV quốc gia cùng với UNESCO Việt Nam tổ chức hội thảo “Văn hóa kinh doanh” tại Hà Nội bàn về vấn đề văn hóa trong kinh doanh.
Tác giả Đỗ Minh Cương có cuốn: “Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh” đi sâu vào vấn đề triết lý trong kinh doanh.
Trong cuốn: “Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh” của tác giả Phạm Quốc Toản đề cập đến đạo đức trong kinh doanh.
Năm 2003, tác giả Trần Quốc Dân đã ra cuốn sách: “Tinh thần doanh nghiệp, giá trị định hướng văn hóa kinh doanh Việt Nam”.
Một số bài viết về Văn hóa doanh nghiệp được đăng trên tạp chí khoa học như: “Văn hóa doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Thường Lạng trên tạp chí Kinh tế và phát triển số 55/2002.
Năm 2003, Giáo sư Hoàng Vinh có bài tham luận: “Góp phần bàn về thuật ngữ văn hóa kinh doanh”.
Tác giả Nguyễn Mạnh Quân, trường Đại học Kinh tế quốc dân có bài “Đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty - nhân cách của doanh nghiệp trong tương lai”.
Chuyên mục “bàn tròn” của thời báo Kinh tế Việt Nam, số 6 thứ 7 ngày 10/1/2004 đã đăng các bài phát biểu của các nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp và về văn hóa doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, những cuốn sách, những bài bào, tham luận này mới chỉ đi vào tìm hiểu khái niệm về văn hóa doanh nghiệp và vai trò của nó trong các công ty, các doanh nghiệp mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu xây dựng các thành tố của văn hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành. Mặc dù vậy, đây là những nguồn tư liệu quý để tác giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp trong các công ty lữ hành ở Hạ Long.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức rõ những vấn đề lý luận chung về văn hóa doanh nghiệp, luận văn phân tích đánh giá thực trạng văn hóa doanh nghiệp tại một số công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long. Từ đó, đưa ra một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp tại các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận về văn hóa doanh nghiệp, những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành văn hóa doanh nghiệp, thực trạng văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành tại Hạ Long hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: một số công ty lữ hành tại Hạ Long, như: công ty cổ phần du lịch Hạ Long, công ty du lịch và dịch vụ Hồng Gai, công ty du lịch Thanh niên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp lịch sử và logic.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm phong phú hơn vấn đề lý luận về văn hóa doanh nghiệp, khảo sát đánh giá thực trạng văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long. Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả “ văn hóa doanh nghiệp” như một giá trị văn hóa mới, góp phần pát huy động lực văn hóa đối với sự phát triển Kinh tế- xã hội ở Thành phố Hạ Long nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về văn hóa doanh nghiệp và tổng quan về công ty lữ hành.
Chương 2: Thực trạng của văn hóa doanh nghiệp trong các công ty lữ hành ở Hạ Long.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
VÀ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH
1.1.1. Khái niệm công ty lữ hành:
Từ năm 1990 đến nay, du lịch Việt Nam phát triển nhanh, với tốc độ tăng trưởng khách hàng năm 30-40%. Nếu lượng khách quốc tế tới Việt Nam năm 1990 là 250.000 lượt người thì đến năm 2010 đã hơn 4 triệu lượt người. Chính vì vậy hệ thống kinh doanh du lịch cũng phát triển mạnh mẽ nhằm cung cấp sản phẩm, dịch vụ đáp ứng yêu cầu của du khách, mang lại nguồn thu không nhỏ cho các doanh nghiệp và đất nước. Trong hệ thống kinh doanh đó, kinh doanh lữ hành có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, trên thế giới vẫn tồn tại khá nhiều định nghĩa khác nhau về công ty lữ hành, xuất phát từ gốc độ khác nhau trong việc nghiên cứu các công ty lữ hành. Mặt khác bản thân hoạt động du lịch nói chung và lữ hành nói riêng có nhiều điều biến đổi theo thời gian. Ở mỗi giai đoạn phát triển, hoạt động lữ hành du lịch luôn có những hình thức và nội dung mới.
Ở thời kỳ đầu tiên, các công ty lữ hành chủ yếu tập trung vào các hoạt động trung gian, làm đại lý bán sản phẩm của các nhà cung cấp như khách sạn, hàng không… Khi đó thì các công ty lữ hành (thực chất là các đại lý du lịch) được định nghĩa như một pháp nhân kinh doanh chủ yếu dưới hình thức là đại diện, đại lý các nhà sản xuất (khách sạn, hãng ô tô, tàu biển…) bán sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng với mục đích thu tiền hoa hồng (commission). Trong quá trình phát triển đến nay, hình thức các đại lý du lịch vẫn liên tục được mở rộng và tiến triển.
Một cách định nghĩa phổ biến hơn là căn cứ vào hoạt động tổ chức các chương trình du lịch trọn gói của các công ty lữ hành. Khi đã phát triển ở một mức độ cao hơn so với việc làm trung gian thuần túy, các công ty lữ hành đã tự tạo ra các sản phẩm của mình bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng rẽ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ô tô, tàu thủy và các chuyến tham quan thành một sản phẩm (chương trình du lịch) hoàn chỉnh và bán cho khách hàng du lịch với một mức giá gộp. Ở đây công ty lữ hành không chỉ dừng lại ở người bán mà trở thành người mua sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch. Tại Bắc Mỹ, công ty lữ hành được coi là những công ty xây dựng các chương trình du lịch bằng cách tập hợp các thành phần như khách sạn, hàng không, tham quan… và bán chúng với một mức giá gộp cho khách du lịch thông qua hệ thống các đại lý bán lẻ. Trong cuốn "Từ điển quản lý du lịch, khách sạn và nhà hàng", công ty lữ hành được định nghĩa rất đơn giản là các pháp nhân tổ chức và bán các chương trình du lịch. Ở Việt Nam, doanh nghiệp lữ hành được định nghĩa: "Doanh nghiệp lữ hành là đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, được thành lập nhằm mục đích sinh lợi bằng việc giao dịch, ký kết các hợp đồng du lịch và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch" (Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 09/CP của Chính phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch TCDL - Số 715/TCDL ngày 9/7/1994). Theo cách phân loại của Tổng cục du lịch Việt Nam thì các công ty lữ hành gồm 2 loại: Công ty lữ hành quốc tế và công ty lữ hành nội địa, được quy định như sau: (Theo quy chế quản lý lữ hành - TCDL 29/4/1995)[9,tr 6]
Doanh nghiệp lữ hành quốc tế: Có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần theo yêu cầu của khách để trực tiếp thu hút khách đến Việt Nam và đưa công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du lịch đã bán hay ký hợp đồng ủy thác từng phần, trọn gói cho lữ hành nội địa.
Doanh nghiệp lữ hành nội địa: Có trách nhiệm xây dựng, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nội địa, nhận ủy thác để thực hiện dịch vụ chương trình du lịch cho khách nước ngoài đã được các doanh nghiệp lữ hành quốc tế đưa vào Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều công ty lữ hành có phạm vi hoạt động rộng lớn mang tính toàn cầu và trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt động du lịch. Các công ty lữ hành đồng thời sở hữu các tập đoàn khách sạn, các hãng hàng không, tàu biển, ngân hàng, phục vụ chủ yếu khách du lịch của công ty lữ hành. Kiểu tổ chức các công ty lữ hành nói trên rất phổ biến ở châu Âu, châu Á và đã trở thành những tập đoàn kinh doanh du lịch có khả năng chi phối mạnh mẽ thị trường du lịch quốc tế. Ở giai đoạn này thì các công ty lữ hành không chỉ là người bán (phân phối), người mua sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch mà trở thành người sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm du lịch. Từ đó có thể nêu một định nghĩa công ty lữ hành như sau:
Công ty lữ hành là một loại hình doanh nghiệp du lịch đặc biệt, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch trọn gói cho khách du lịch. Ngoài ra công ty lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt động trung gian bán sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch hay thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác đảm bảo phục vụ nhu cầu du lịch của khách từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.)[9,tr 7]
1.1.2. Phân loại công ty lữ hành:
Có nhiều cách phân loại các công ty lữ hành. Mỗi một quốc gia có một cách phân loại phù hợp với điều kiện thực tế của hoạt động du lịch. Các tiêu thức thông thường dùng để phân loại bao gồm:
• Sản phẩm chủ yếu của công ty lữ hành: dịch vụ trung gian, du lịch trọn gói…
• Phạm vi hoạt động của công ty lữ hành.
• Quy mô và cách hoạt động của công ty lữ hành.
• Quan hệ của công ty lữ hành với khách du lịch.
• Quy định của các cơ quan quản lý du lịch.
Tại Việt Nam các công ty lữ hành được chia làm hai loại cơ bản là doanh nghiệp lữ hành quốc tế và doanh nghiệp lữ hành nội địa theo quy định của Tổng cục Du lịch Việt Nam trên cơ sở phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Các quy định này nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp lữ hành quốc tế phải có đủ các điều kiện cần thiết như kinh nghiệp (phải trải qua ít nhất 2 năm kinh doanh lữ hành nội địa), uy tín, tài chính, đội ngũ nhân viên… Từ đó hạn chế được những hậu quả bất lợi cho doanh nghiệp nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung.
Trên thị trường du lịch quốc tế, Nhật Bản cũng có cách phân loại tương tự như ở Việt Nam, phân chia các công ty lữ hành ra làm 3 loại cơ bản: Công ty lữ hành tổng hợp (tương đương với công ty lữ hành quốc tế), công ty lữ hành nội địa, và các công ty lữ hành trực thuộc là thay mặt hay chi nhánh của các công ty lữ hành khác.
Hiện nay cách phân loại chủ yếu đối với các công ty lữu hành được áp dụng tại hầu hết các nước trên thế giới được thể hiện trên sơ đồ 2.
SƠ ĐỒ 2: PHÂN LOẠI CÁC CÔNG TY LỮ HÀNH
- Các đại lý du lịch là những công ty lữ hành mà hoạt động chủ yếu của chúng là làm trung gian bán sản phẩm của các nhà cung cấp dịch vụ và hàng hóa du lịch. Các đại lý du lịch bán vé máy bay (chiếm phần lớn doanh số), bán các chương trình du lịch, đăng ký chỗ trong khách sạn, bán vé xe lửa, tàu thủy, môi giới thuê xe ô tô. Đây là hệ thống phân phối các sản phẩm du lịch, mà các đại lý du lịch có vai trò gần giống như các cửa hàng du lịch. Tại các nước phát triển bình quân cứ 15.000 - 20.000 dân có một đại lý du lịch, đảm bảo thuận tiện tới mức tối đa cho khách du lịch.
Các đại lý du lịch bán buôn thường là các công ty lữ hành lớn, có hệ thống các đại lý bán lẻ, điểm bán. Con số này có thể lên tới vài trăm, và doanh số của các đại lý du lịch bán buôn lớn trên thế giới lên tới hàng tỷ USD.
Các đại lý du lịch bán buôn mua sản phẩm của các nhà cung cấp với số lượng lớn có mức giá rẻ, sau đó tiêu thụ qua hệ thống bán lẻ với mức giá công bố, phổ biến trên thị trường. Các đại lý bán lẻ có thể là những đại lý độc lập, đại lý độc quyền hay tham gia vào các chuỗi của các đại lý bán buôn. Các điểm bán độc lập thường do các công ty hàng không, tập đoàn khách sạn đứng ra tổ chức và bảo lãnh cho hoạt động.
- Các công ty lữ hành (tại Việt Nam còn gọi là các công ty Du lịch) là những công ty kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực du lịch trọn gói và khách sạn du lịch tổng hợp. Các công ty lữ hành gửi khách thường được tổ chức (thành lập) tại các nguồn khách lớn, nhằm thu hút trực tiếp khách du lịch, đưa họ đến các điểm du lịch nổi tiếng. Các công ty lữ hành nhận khách được thành lập gần các vùng tài nguyên du lịch, chủ yếu nhằm đón nhận và tiến hành phục vụ khách du lịch do các công ty du lịch gửi khách tới.
Sự phối hợp giữa các công ty du lịch gửi khách và nhận khách là xu thế phổ biến trong kinh doanh lữ hành du lịch. Tuy nhiên, những công ty, tập đoàn du lịch lớn thường đảm nhận cả 2 khâu nhận khách và gửi khách). Điều đó có nghĩa các công ty này trực tiếp khai thác các nguồn khách và đảm nhận cả việc tổ chức thực hiện các chương trình du lịch. Đây là mô hình kinh doanh của các công ty du lịch tổng hợp với quy mô lớn.
Ngoài ra, căn cứ vào phạm vi hoạt động, người ta còn phân chia thành các công ty lữ hành nội địa và các công ty lữ hành quốc tế.
- Cần khẳng định một điều là sự phân loại này mang tính chất tương đối, bởi vì các công ty lữ hành lớn có thể bao gồm cả một hệ thống các đại lý du lịch hay ngược lại các đại lý du lịch lớn cũng tự tổ chức thực hiện những chương trình du lịch của chính bản thân họ.
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của các công ty lữ hành và chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận
1.1.3.1. Cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức của các công ty lữ hành
Cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp là hình thức liên kết, tác động của toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ lao động của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu quả nhất để đạt được những mục tiêu đặt ra.
Cơ cấu tổ chức cung cấp cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phương pháp tốt nhất để cân bằng mâu thuẫn cơ bản trong doanh nghiệp: Phân chia quá trình sản xuất kinh doanh thành những nhóm nhỏ theo hướng chuyên môn hóa với tổ chức phối hợp, liên kết các nhóm này nhằm đảm bảo tính hiệu quả của doanh nghiệp. Thông thường, để xây dựng cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp, người ta căn cứ vào những khía cạnh sau đây:
a. Khả năng phân chia (complexity)
Sự phân chia trong cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp được thực hiện theo 3 hướng cơ bản:
- Phân chia theo chiều ngang: khả năng chia nhỏ công ty thành các nhóm thống nhất. Cách phân chia này dựa trên các cơ sở như:
+ Chức năng (quản lý, Marketing, tài chính).
+ Các giai đoạn sản xuất (dây chuyền lắp ráp, kiểm tra, kho vận...) hay đối tượng phục vụ khách quốc tế, khách nội địa ....)
- Phân chia theo chiều dọc: Các cấp quản lý trong công ty. Một công ty lớn có nhiều cấp, công ty nhỏ thường ít hơn.
- Phân chia theo khu vực địa lý, theo phạm vi hoạt động hay nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty.
b. Hình thức tổ chức (Formalization)
Bao gồm toàn bộ những quy định và quy trình hoạt động của doanh nghiệp. Những quy trình và quy định này có 2 mặt tác động đến hoạt động doanh nghiệp, chúng có thể giảm đến mức tối thiểu những sai sót, tăng cường khả năng kiểm tra, đảm bảo sự hoạt động nhịp nhàng... Nhưng chúng có thể hạn chế tính sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp. Một hệ thống quy định và quy trình khoa học phải dựa trên những điều kiện và mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp.
c. Mức độ tập trung hóa
Những quyết định quan trọng phải thuộc về các cấp lãnh đạo cao nhất. Điều này hoàn toàn không ảnh hưởng đến tính tự chủ của các bộ phận trong doanh nghiệp. Đi đôi với việc đảm bảo các quyền tự chủ của các thành viên, các cấp lãnh đạo phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn và quyết định trong những trường hợp cần thiết.
Căn cứ vào những cơ sở trên đây, các doanh nghiệp thường có cơ cấu tổ chức theo 3 loại hình cơ bản: đơn giản (trực tuyến) chức năng và hỗn hợp). Mỗi một loại hình đều có ưu điểm và nhược điểm riêng.
Một là: Cơ cấu tổ chức trực tuyến (Simple Structure)
Đây là hình thức tổ chức cổ điển nhất, phổ biến, vào thế kỷ 19. Hình thức
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 3
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VÀ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH 7
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH 7
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN 20
Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY LỮ HÀNH Ở HẠ LONG (KHẢO SÁT QUA CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH HẠ LONG, CÔNG TY DU LỊCH & DỊCH VỤ HỒNG GAI, CÔNG TY DU LỊCH THANH NIÊN) 31
2.1. BỐI CẢNH CHUNG TÁC ĐỘNG ĐẾN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH TẠI HẠ LONG 31
2.2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CỦA CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH Ở HẠ LONG 43
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOÀN THIỆN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH Ở HẠ LONG 65
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH Ở HẠ LONG 65
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẠ LONG 69
3.3. GIẢI PHÁP CƠ BẢN CHO VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP 73
3.4. KIẾN NGHỊ 82
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
Không có một công thức chung nào cho việc vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc vào từng công ty bởi văn hóa Việt vốn phong phú và đa dạng, cách nhìn nhận và tiếp cận nền văn hóa dân tộc khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của mỗi người. Tuy vậy, để có thể xây dựng một nền văn hóa bền vững vì con người trong công ty thì không thể bỏ qua yếu tố bản sắc văn hóa dân tộc, vốn là "những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước". Nhận dạng một số bản sắc văn hóa dân tộc trong tính cách con người như: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo.
Mặt khác, trong điều kiện môi trường kinh doanh không ngừng biến động, cộng với sự tiến độ như vũ bão của khoa học công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) trên thế giới, để có thể thích nghi nhanh chóng và mở rộng thị trường, các công ty du lịch lữ hành cần xây dựng cho mình một nền văn hóa hiện đại. Đó chính là việc sử dụng các yếu tố của công nghệ thông tin cho việc quảng bá thương hiệu, quảng bá sản phẩm dịch vụ và các tuor du lịch cho khách hàng trong nước và cả quốc tế, từng bước hiện đại hóa công nghệ marketing cho các sản phẩm của công ty, đồng thời phát huy được sự năng động và sáng tạo của các thành viên trong công ty.
3.3.3.5. Tăng cường đầu tư vật chất cho xây dựng văn hóa doanh nghiệp
Để từng thành viên thấm nhuần được tinh thần của triết lý kinh doanh, khẩu hiệu chung của các công ty lữ hành đó là "nhắc nhở, làm gương" của người lãnh đạo chỉ là một cách thức. Cách thức khác hữu hiệu không kém là gắn những văn bản, triết lý, với hoạt động hội hè, vui chơi giải trí của nhân viên, chế độ lương thưởng, đồng phục, trang thiết bị làm việc, những nghi thức trong công ty. Đó là những yếu tố thuộc về lớp bề nổi của văn hóa doanh nghiệp và rất dễ cảm nhận vì tính hữu hình của chúng.
Những hoạt động hội hè để tạo thành nét riêng của các công ty lữ hành phải bảo đảm hai yếu tố: Thứ nhất, được tổ chức định kỳ và đều đặn hàng năm với mục tiêu nâng cao tinh thần doanh nghiệp và gây dựng niềm tin tự hào cho mọi thành viên; thứ hai là độc đáo (có ý nghĩa là sáng tạo và khác biệt so với các công ty khác).
Có thể nói, tham gia vào các hoạt động tập thể với công ty là cơ hội tốt để các nhân viên cảm nhận được "bầu không khí gia đình trong doanh nghiệp" và thấy gắn bó hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn trước những vấn đề chung của công ty.
Tăng cường đầu tư cho văn hóa là việc làm rất cần thiết không chỉ riêng với những công ty đã có thương hiệu và đạt được tốc độ phát triển cao. Có quan điểm cho rằng "chỉ nên chú trọng văn hóa khi công ty đã lớn mạnh, đã ăn nên làm ra" là hoàn toàn không đúng. Thực tế đã chứng minh, con người lao động và cống hiến không chỉ vì lợi ích vật chất mà còn vì những yếu tố tinh thần, vì tình cảm gắn bó với công ty. Để tạo ra những động lực phi vật chất đó thì nhất thiết các công ty lữ hành cần có một nền văn hóa mạnh. Người lãnh đạo công ty cần có ý thức coi đây là những đầu tư cần thiết cho sự phát triển của công ty, không chỉ nên chú trọng đến kết quả kinh doanh và coi những chỉ tiêu về văn hóa cho người lao động là phù phiếm và tốn kém, vì đây chính là chất keo để gắn kết người lao động với công ty, tạo nền móng cho sự phát triển lâu dài của công ty.
3.4. KIẾN NGHỊ
3.4.1. Một số kiến nghị về các chính sách phát triển du lịch ở thành phố Hạ Long.
- Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hoá phát triển du lịch.
- Xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch gồm: dạy nghề, đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học về du lịch.
- Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực du lịch; đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo theo chuẩn hoá quốc gia cho ngành du lịch; gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo với nghiên cứu để nâng cao chất lượng giảng dạy và trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ du lịch tiên tiến phục vụ phát triển du lịch bền vững, tạo bước phát triển mới có hiệu quả trong nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học và công nghệ vào hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch.
- Đẩy mạnh xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch với các hình thức linh hoạt; phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành; tranh thủ hợp tác quốc tế trong hoạt động xúc tiến du lịch ở trong và ngoài nước, từng bước tạo dựng và nâng cao hình ảnh du lịch Việt Nam trên trường quốc tế; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và của nhân dân về vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.4.2. Một số kiến nghị với các công ty du lịch lữ hành.
Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, Quảng Ninh có nhiều lợi thế để phát triển các sản phẩm du lịch bền vững như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng gắn với các khu bảo tồn, di tích lịch sử... hướng người dân sống trong khu vực cải thiện sinh kế nhằm giảm áp lực của cộng đồng đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, đối với Quảng Ninh, việc xây dựng các sản phẩm du lịch mới nói chung còn cùng kiệt nàn, một số sản phẩm du lịch chưa thực sự hướng tới sự phát triển bền vững. Hiện nay, ngành du lịch Quảng Ninh cũng đang tiến hành khảo sát, thu hút các nhà đầu tư du lịch, công ty lữ hành phát triển các sản phẩm du lịch mới tại các vùng nông thôn, miền núi, mở rộng các hoạt động du lịch sinh thái tại sông, hồ, bờ biển nhằm kéo dài thời gian lưu trú, tăng khả năng chi tiêu của khách mà không làm phá vỡ cảnh quan môi trường du lịch vốn có. Đồng thời thực hiện các nhiệm vụ nâng cao chất lượng du lịch, giữ gìn môi trường cảnh quan, làm tốt công tác quy hoạch, quản lý xây dựng, tăng cường quản lý nhà nước, định hướng phát triển du lịch theo hướng nâng cao chất lượng.
Việc phát triển du lịch phải làm sao không phá vỡ không gian sống, đảm bảo sự phát triển bền vững, gắn kết với chính người dân địa phương và cuộc sống hàng ngày của họ, là một bộ phận không thể tách rời của sự hấp dẫn du khách đến Quảng Ninh. Theo đánh giá của các công ty du lịch lữ hành, hiện nay, du khách quốc tế thường chọn những điểm du lịch không bị ô nhiễm môi trường gắn với du lịch sinh thái... đến tham quan, nghỉ dưỡng. Họ sẵn sàng trả chi phí cao để mua các sản phẩm du lịch bền vững hơn các sản phẩm du lịch truyền thống khác.
Hy vọng, với định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững, trong thời gian tới, du lịch Quảng Ninh sẽ tạo ra được những sản phẩm du lịch độc đáo, phong phú thu hút ngày càng nhiều du khách.
KẾT LUẬN
Văn hóa là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, bao trùm lên mọi hoạt động của xã hội loài người, hay nói theo E.Heriot: "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên lãng đi - đó là Văn hóa". Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tầm quan trọng của văn hóa ngày càng được khẳng định vững chắc. Ngày nay, chính chính phủ các nước đều ý thức rằng chỉ có thể đạt được sự phát triển kinh tế bền vững trên nền tảng một xã hội có văn hóa chính là một xã hội thu nhỏ, nếu muốn đứng vững trước sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, nhà kinh doanh không thể chỉ tự trang bị bằng kiến thức, công nghệ, mà cần cả một nền tảng văn hóa vững chắc, hay nói chung là cần xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Ở Việt Nam vấn đề này đang trở nên cấp thiết. Việt Nam là một quốc gia có một nền văn hóa lâu đời nhưng chúng ta chưa dành sự quan tâm thích đáng cho việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Bước vào thế kỷ XXI, hòa mình vào xu thế phát triển chung của thế giới, các doanh nghiệp đều lưu tâm nghiên cứu vấn đề này để nâng cao ý thức văn hóa và tạo nguồn lực cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhâp khu vực và thế giới. Tuy nhiên, văn hóa doanh nghiệp và việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp là những vấn đề phức tạp, còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của đề tài này cho thấy, nhận thức về văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp còn mơ hồ, số doanh nghiệp thực sự quan tâm đầu tư cho xây dựng văn hóa doanh nghiệp còn ít ỏi và thiếu kiến thức, kinh nghiệm cần thiết. Với những phương hướng và giải pháp đea ra trong đề tài này, tác giả hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào tiến trình xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp du lịch lữ hành trên địa bàn thành phố Hạ Long nói riêng và các doanh nghiệp ở Quảng Ninh nói chung.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, tinh hình kinh tế, văn hóa, xã hội có những bước phát triển rõ rệt. Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), nước ta chuyển dần từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chính sách mở cửa, thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước cũng như nước ngoài, cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu quan trọng. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và thu được nhiều kết quả tốt, kinh tế tiếp tục được phát triển và duy trì nhịp độ tăng trưởng khá, hệ thống cơ sở hạ tầng được tăng cường, các ngành kinh tế, trong đó có các ngành dịch vụ đều có bước phát triển mới tích cực. Diện mạo các đô thị được chỉnh trang, xây dựng hiện đại hơn, tiếp cận và thích nghi với lối sống công nghiệp. Nông thôn cũng có những biến đổi sâu sắc, sản xuất lương thực và thực phẩm tăng mạnh và ổn định, dự trữ lương thực được đảm bảo và là một trong những nước xuất khẩu gọa lớn nhất thế giới.
Được mệnh danh là một ngành công nghiệp không khói, ngành du lịch cũng đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của cả dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước”. Với những định hướng như vậy, trong những năm qua ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, hội nhập khu vực và thế giới của đất nước.
Là một tỉnh nằm ở phía Đông Bắc của tổ quốc, Quảng Ninh có những nguồn tài nguyên du lịch quý giá: đó là cảnh quan vịnh Hạ Long, 2 lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, đó là những bãi tắm đẹp như Titop, Trà Cổ, Quan Lạn...cùng với đó là hàng loạt các công trình văn hóa như Chùa Yên Tử, chùa Quỳnh Lâm, đền Cửa Ông, đình Phong Cốc, Trà Cổ, Quan Lạn.... Hàng năm, Quảng Ninh thu hút hàng triệu lượt khách du lịch đến tham quan và nghỉ dưỡng, nguồn thu từ du lịch đạt hàng ngàn tỉ đồng. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020, ngành du lịch được đặc biệt coi trọng với mục tiêu đạt khoảng 4 triệu lượt khách, doanh thu đạt trên 5000 tỷ đồng vào năm 2020. Để làm được điều này, đòi hỏi chính quyền và nhân dân trong tỉnh phải có những chính sách, biện pháp hợp lý, phải có sự phối hợp đồng đều giữa các cơ quan, ban ngành trong tỉnh, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Với vai trò là cầu nối giữa khách du lịch với các điểm tham quan và các dịch vụ phục vụ, các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành cần có những chiến lược phát triển hợp lý và lâu dài. Một trong những giải pháp được đưa ra, đó là thực hiện vấn đề văn hóa trong kinh doanh, nhằm mục tiêu xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, hòa đồng, tạo điều kiện tốt nhất cho mỗi cán bộ nhân viên phát huy năng lực và vai trò của mình, đem lại lợi ích tốt nhất cho công ty và phục vụ tốt nhất cho khách hàng của mình. Đề tài: “Văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long” được thực hiện nhằm mục đích như vậy.
2. Tình hình nghiên cứu
Văn hóa doanh nghiệp là một lĩnh vực không mới đối với nhiều nước phát triển trên thế giới, đặc biệt là tại các nước phương Tây. Ở Việt Nam, vấn đề này được đề cập muộn hơn. Năm 1995, Trung tâm KHXHNV quốc gia cùng với UNESCO Việt Nam tổ chức hội thảo “Văn hóa kinh doanh” tại Hà Nội bàn về vấn đề văn hóa trong kinh doanh.
Tác giả Đỗ Minh Cương có cuốn: “Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh” đi sâu vào vấn đề triết lý trong kinh doanh.
Trong cuốn: “Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh” của tác giả Phạm Quốc Toản đề cập đến đạo đức trong kinh doanh.
Năm 2003, tác giả Trần Quốc Dân đã ra cuốn sách: “Tinh thần doanh nghiệp, giá trị định hướng văn hóa kinh doanh Việt Nam”.
Một số bài viết về Văn hóa doanh nghiệp được đăng trên tạp chí khoa học như: “Văn hóa doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Thường Lạng trên tạp chí Kinh tế và phát triển số 55/2002.
Năm 2003, Giáo sư Hoàng Vinh có bài tham luận: “Góp phần bàn về thuật ngữ văn hóa kinh doanh”.
Tác giả Nguyễn Mạnh Quân, trường Đại học Kinh tế quốc dân có bài “Đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty - nhân cách của doanh nghiệp trong tương lai”.
Chuyên mục “bàn tròn” của thời báo Kinh tế Việt Nam, số 6 thứ 7 ngày 10/1/2004 đã đăng các bài phát biểu của các nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp và về văn hóa doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, những cuốn sách, những bài bào, tham luận này mới chỉ đi vào tìm hiểu khái niệm về văn hóa doanh nghiệp và vai trò của nó trong các công ty, các doanh nghiệp mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu xây dựng các thành tố của văn hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành. Mặc dù vậy, đây là những nguồn tư liệu quý để tác giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp trong các công ty lữ hành ở Hạ Long.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức rõ những vấn đề lý luận chung về văn hóa doanh nghiệp, luận văn phân tích đánh giá thực trạng văn hóa doanh nghiệp tại một số công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long. Từ đó, đưa ra một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp tại các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận về văn hóa doanh nghiệp, những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành văn hóa doanh nghiệp, thực trạng văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành tại Hạ Long hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: một số công ty lữ hành tại Hạ Long, như: công ty cổ phần du lịch Hạ Long, công ty du lịch và dịch vụ Hồng Gai, công ty du lịch Thanh niên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp lịch sử và logic.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm phong phú hơn vấn đề lý luận về văn hóa doanh nghiệp, khảo sát đánh giá thực trạng văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long. Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả “ văn hóa doanh nghiệp” như một giá trị văn hóa mới, góp phần pát huy động lực văn hóa đối với sự phát triển Kinh tế- xã hội ở Thành phố Hạ Long nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về văn hóa doanh nghiệp và tổng quan về công ty lữ hành.
Chương 2: Thực trạng của văn hóa doanh nghiệp trong các công ty lữ hành ở Hạ Long.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong các công ty du lịch lữ hành ở Hạ Long.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
VÀ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH
1.1.1. Khái niệm công ty lữ hành:
Từ năm 1990 đến nay, du lịch Việt Nam phát triển nhanh, với tốc độ tăng trưởng khách hàng năm 30-40%. Nếu lượng khách quốc tế tới Việt Nam năm 1990 là 250.000 lượt người thì đến năm 2010 đã hơn 4 triệu lượt người. Chính vì vậy hệ thống kinh doanh du lịch cũng phát triển mạnh mẽ nhằm cung cấp sản phẩm, dịch vụ đáp ứng yêu cầu của du khách, mang lại nguồn thu không nhỏ cho các doanh nghiệp và đất nước. Trong hệ thống kinh doanh đó, kinh doanh lữ hành có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, trên thế giới vẫn tồn tại khá nhiều định nghĩa khác nhau về công ty lữ hành, xuất phát từ gốc độ khác nhau trong việc nghiên cứu các công ty lữ hành. Mặt khác bản thân hoạt động du lịch nói chung và lữ hành nói riêng có nhiều điều biến đổi theo thời gian. Ở mỗi giai đoạn phát triển, hoạt động lữ hành du lịch luôn có những hình thức và nội dung mới.
Ở thời kỳ đầu tiên, các công ty lữ hành chủ yếu tập trung vào các hoạt động trung gian, làm đại lý bán sản phẩm của các nhà cung cấp như khách sạn, hàng không… Khi đó thì các công ty lữ hành (thực chất là các đại lý du lịch) được định nghĩa như một pháp nhân kinh doanh chủ yếu dưới hình thức là đại diện, đại lý các nhà sản xuất (khách sạn, hãng ô tô, tàu biển…) bán sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng với mục đích thu tiền hoa hồng (commission). Trong quá trình phát triển đến nay, hình thức các đại lý du lịch vẫn liên tục được mở rộng và tiến triển.
Một cách định nghĩa phổ biến hơn là căn cứ vào hoạt động tổ chức các chương trình du lịch trọn gói của các công ty lữ hành. Khi đã phát triển ở một mức độ cao hơn so với việc làm trung gian thuần túy, các công ty lữ hành đã tự tạo ra các sản phẩm của mình bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng rẽ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ô tô, tàu thủy và các chuyến tham quan thành một sản phẩm (chương trình du lịch) hoàn chỉnh và bán cho khách hàng du lịch với một mức giá gộp. Ở đây công ty lữ hành không chỉ dừng lại ở người bán mà trở thành người mua sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch. Tại Bắc Mỹ, công ty lữ hành được coi là những công ty xây dựng các chương trình du lịch bằng cách tập hợp các thành phần như khách sạn, hàng không, tham quan… và bán chúng với một mức giá gộp cho khách du lịch thông qua hệ thống các đại lý bán lẻ. Trong cuốn "Từ điển quản lý du lịch, khách sạn và nhà hàng", công ty lữ hành được định nghĩa rất đơn giản là các pháp nhân tổ chức và bán các chương trình du lịch. Ở Việt Nam, doanh nghiệp lữ hành được định nghĩa: "Doanh nghiệp lữ hành là đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, được thành lập nhằm mục đích sinh lợi bằng việc giao dịch, ký kết các hợp đồng du lịch và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch" (Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 09/CP của Chính phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch TCDL - Số 715/TCDL ngày 9/7/1994). Theo cách phân loại của Tổng cục du lịch Việt Nam thì các công ty lữ hành gồm 2 loại: Công ty lữ hành quốc tế và công ty lữ hành nội địa, được quy định như sau: (Theo quy chế quản lý lữ hành - TCDL 29/4/1995)[9,tr 6]
Doanh nghiệp lữ hành quốc tế: Có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần theo yêu cầu của khách để trực tiếp thu hút khách đến Việt Nam và đưa công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du lịch đã bán hay ký hợp đồng ủy thác từng phần, trọn gói cho lữ hành nội địa.
Doanh nghiệp lữ hành nội địa: Có trách nhiệm xây dựng, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nội địa, nhận ủy thác để thực hiện dịch vụ chương trình du lịch cho khách nước ngoài đã được các doanh nghiệp lữ hành quốc tế đưa vào Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều công ty lữ hành có phạm vi hoạt động rộng lớn mang tính toàn cầu và trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt động du lịch. Các công ty lữ hành đồng thời sở hữu các tập đoàn khách sạn, các hãng hàng không, tàu biển, ngân hàng, phục vụ chủ yếu khách du lịch của công ty lữ hành. Kiểu tổ chức các công ty lữ hành nói trên rất phổ biến ở châu Âu, châu Á và đã trở thành những tập đoàn kinh doanh du lịch có khả năng chi phối mạnh mẽ thị trường du lịch quốc tế. Ở giai đoạn này thì các công ty lữ hành không chỉ là người bán (phân phối), người mua sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch mà trở thành người sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm du lịch. Từ đó có thể nêu một định nghĩa công ty lữ hành như sau:
Công ty lữ hành là một loại hình doanh nghiệp du lịch đặc biệt, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch trọn gói cho khách du lịch. Ngoài ra công ty lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt động trung gian bán sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch hay thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác đảm bảo phục vụ nhu cầu du lịch của khách từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.)[9,tr 7]
1.1.2. Phân loại công ty lữ hành:
Có nhiều cách phân loại các công ty lữ hành. Mỗi một quốc gia có một cách phân loại phù hợp với điều kiện thực tế của hoạt động du lịch. Các tiêu thức thông thường dùng để phân loại bao gồm:
• Sản phẩm chủ yếu của công ty lữ hành: dịch vụ trung gian, du lịch trọn gói…
• Phạm vi hoạt động của công ty lữ hành.
• Quy mô và cách hoạt động của công ty lữ hành.
• Quan hệ của công ty lữ hành với khách du lịch.
• Quy định của các cơ quan quản lý du lịch.
Tại Việt Nam các công ty lữ hành được chia làm hai loại cơ bản là doanh nghiệp lữ hành quốc tế và doanh nghiệp lữ hành nội địa theo quy định của Tổng cục Du lịch Việt Nam trên cơ sở phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Các quy định này nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp lữ hành quốc tế phải có đủ các điều kiện cần thiết như kinh nghiệp (phải trải qua ít nhất 2 năm kinh doanh lữ hành nội địa), uy tín, tài chính, đội ngũ nhân viên… Từ đó hạn chế được những hậu quả bất lợi cho doanh nghiệp nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung.
Trên thị trường du lịch quốc tế, Nhật Bản cũng có cách phân loại tương tự như ở Việt Nam, phân chia các công ty lữ hành ra làm 3 loại cơ bản: Công ty lữ hành tổng hợp (tương đương với công ty lữ hành quốc tế), công ty lữ hành nội địa, và các công ty lữ hành trực thuộc là thay mặt hay chi nhánh của các công ty lữ hành khác.
Hiện nay cách phân loại chủ yếu đối với các công ty lữu hành được áp dụng tại hầu hết các nước trên thế giới được thể hiện trên sơ đồ 2.
SƠ ĐỒ 2: PHÂN LOẠI CÁC CÔNG TY LỮ HÀNH
- Các đại lý du lịch là những công ty lữ hành mà hoạt động chủ yếu của chúng là làm trung gian bán sản phẩm của các nhà cung cấp dịch vụ và hàng hóa du lịch. Các đại lý du lịch bán vé máy bay (chiếm phần lớn doanh số), bán các chương trình du lịch, đăng ký chỗ trong khách sạn, bán vé xe lửa, tàu thủy, môi giới thuê xe ô tô. Đây là hệ thống phân phối các sản phẩm du lịch, mà các đại lý du lịch có vai trò gần giống như các cửa hàng du lịch. Tại các nước phát triển bình quân cứ 15.000 - 20.000 dân có một đại lý du lịch, đảm bảo thuận tiện tới mức tối đa cho khách du lịch.
Các đại lý du lịch bán buôn thường là các công ty lữ hành lớn, có hệ thống các đại lý bán lẻ, điểm bán. Con số này có thể lên tới vài trăm, và doanh số của các đại lý du lịch bán buôn lớn trên thế giới lên tới hàng tỷ USD.
Các đại lý du lịch bán buôn mua sản phẩm của các nhà cung cấp với số lượng lớn có mức giá rẻ, sau đó tiêu thụ qua hệ thống bán lẻ với mức giá công bố, phổ biến trên thị trường. Các đại lý bán lẻ có thể là những đại lý độc lập, đại lý độc quyền hay tham gia vào các chuỗi của các đại lý bán buôn. Các điểm bán độc lập thường do các công ty hàng không, tập đoàn khách sạn đứng ra tổ chức và bảo lãnh cho hoạt động.
- Các công ty lữ hành (tại Việt Nam còn gọi là các công ty Du lịch) là những công ty kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực du lịch trọn gói và khách sạn du lịch tổng hợp. Các công ty lữ hành gửi khách thường được tổ chức (thành lập) tại các nguồn khách lớn, nhằm thu hút trực tiếp khách du lịch, đưa họ đến các điểm du lịch nổi tiếng. Các công ty lữ hành nhận khách được thành lập gần các vùng tài nguyên du lịch, chủ yếu nhằm đón nhận và tiến hành phục vụ khách du lịch do các công ty du lịch gửi khách tới.
Sự phối hợp giữa các công ty du lịch gửi khách và nhận khách là xu thế phổ biến trong kinh doanh lữ hành du lịch. Tuy nhiên, những công ty, tập đoàn du lịch lớn thường đảm nhận cả 2 khâu nhận khách và gửi khách). Điều đó có nghĩa các công ty này trực tiếp khai thác các nguồn khách và đảm nhận cả việc tổ chức thực hiện các chương trình du lịch. Đây là mô hình kinh doanh của các công ty du lịch tổng hợp với quy mô lớn.
Ngoài ra, căn cứ vào phạm vi hoạt động, người ta còn phân chia thành các công ty lữ hành nội địa và các công ty lữ hành quốc tế.
- Cần khẳng định một điều là sự phân loại này mang tính chất tương đối, bởi vì các công ty lữ hành lớn có thể bao gồm cả một hệ thống các đại lý du lịch hay ngược lại các đại lý du lịch lớn cũng tự tổ chức thực hiện những chương trình du lịch của chính bản thân họ.
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của các công ty lữ hành và chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận
1.1.3.1. Cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức của các công ty lữ hành
Cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp là hình thức liên kết, tác động của toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ lao động của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu quả nhất để đạt được những mục tiêu đặt ra.
Cơ cấu tổ chức cung cấp cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phương pháp tốt nhất để cân bằng mâu thuẫn cơ bản trong doanh nghiệp: Phân chia quá trình sản xuất kinh doanh thành những nhóm nhỏ theo hướng chuyên môn hóa với tổ chức phối hợp, liên kết các nhóm này nhằm đảm bảo tính hiệu quả của doanh nghiệp. Thông thường, để xây dựng cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp, người ta căn cứ vào những khía cạnh sau đây:
a. Khả năng phân chia (complexity)
Sự phân chia trong cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp được thực hiện theo 3 hướng cơ bản:
- Phân chia theo chiều ngang: khả năng chia nhỏ công ty thành các nhóm thống nhất. Cách phân chia này dựa trên các cơ sở như:
+ Chức năng (quản lý, Marketing, tài chính).
+ Các giai đoạn sản xuất (dây chuyền lắp ráp, kiểm tra, kho vận...) hay đối tượng phục vụ khách quốc tế, khách nội địa ....)
- Phân chia theo chiều dọc: Các cấp quản lý trong công ty. Một công ty lớn có nhiều cấp, công ty nhỏ thường ít hơn.
- Phân chia theo khu vực địa lý, theo phạm vi hoạt động hay nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty.
b. Hình thức tổ chức (Formalization)
Bao gồm toàn bộ những quy định và quy trình hoạt động của doanh nghiệp. Những quy trình và quy định này có 2 mặt tác động đến hoạt động doanh nghiệp, chúng có thể giảm đến mức tối thiểu những sai sót, tăng cường khả năng kiểm tra, đảm bảo sự hoạt động nhịp nhàng... Nhưng chúng có thể hạn chế tính sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp. Một hệ thống quy định và quy trình khoa học phải dựa trên những điều kiện và mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp.
c. Mức độ tập trung hóa
Những quyết định quan trọng phải thuộc về các cấp lãnh đạo cao nhất. Điều này hoàn toàn không ảnh hưởng đến tính tự chủ của các bộ phận trong doanh nghiệp. Đi đôi với việc đảm bảo các quyền tự chủ của các thành viên, các cấp lãnh đạo phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn và quyết định trong những trường hợp cần thiết.
Căn cứ vào những cơ sở trên đây, các doanh nghiệp thường có cơ cấu tổ chức theo 3 loại hình cơ bản: đơn giản (trực tuyến) chức năng và hỗn hợp). Mỗi một loại hình đều có ưu điểm và nhược điểm riêng.
Một là: Cơ cấu tổ chức trực tuyến (Simple Structure)
Đây là hình thức tổ chức cổ điển nhất, phổ biến, vào thế kỷ 19. Hình thức
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links