comeon_babi
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận không thể tách rời
của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa tinh thần. Vì vậy, việc vận
dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp
cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi mới văn
học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu thuyết, phê bình văn
học, tiểu luận,... nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết phải với tư cách là một cây bút
viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã
trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá
yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma
lực” thu hút rất nhiều độc giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca
ngợi nức lời nhưng cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi
năm kể từ ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên
văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả thật, Nguyễn
Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không ngừng của biển cả văn
học Việt Nam.
Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tui nhận thấy đa phần các
ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông trên phương diện nội
dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên theo chúng tôi, một trong
những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn
hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tui thấy đặc điểm này
cũng đã có những bài viết đề cập đến song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành
một hệ thống trọn vẹn.
Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tui chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng Hua
Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo được tiếngvang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, dư luận mới
bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau đó, bộ ba truyện ngắn “lịch
sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã
thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực
đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên quả quyết: “tui dám chắc chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận,
càng viết dư luận càng mạnh” khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn”
[59, tr.6] như Nguyễn Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều
mà người chê cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và
phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới thiệu
trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, hiện
nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy đủ trong cuốn Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các trang mạng Internet khoảng mười
năm trở lại đây.
Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập trung ở
mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Hoàng
Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ, Philimonova, Phạm Xuân Nguyên,
Nguyễn Đăng Điệp,…Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm
nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có
liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn.
Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có sự
ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm hứng huyền thoại,
truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học Philimonova. Nhà nghiên cứu
người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của
các truyền thuyết văn học, Philimonova đã có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố
dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp […]. Ngay lần đọc đầu
tiên các tác phẩm của anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là
việc anh rất hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều
hiện diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có thể
nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng lớn” [59,
tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên cứu sự ảnh
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phihưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác giả cho rằng những
câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền thuyết văn học; một mặt,
chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng
có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61].
Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn Đăng
Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào văn học”. Tác
giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp “luôn luôn
lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường và xác định giá trị nhân thế
bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân
gian” [20].
Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những nét
phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền thoại mạnh:
“sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy Thiệp, không những
bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy thần) và cổ tích (Những
ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc,
Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288].
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện rõ trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các nhân vật ngốc
nghếch, mồ côi,…rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn
Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian” [59, tr.389]. Cảm hứng ấy một
phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ
dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59,
tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân
vật kể trên luôn ẩn chứa một “nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ
trong nhiều thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp.
Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích
trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề: “Xây dựng
nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới
quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ
tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu
nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh
Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệpkhông có cái nhìn nhất phiến về giai thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn
năm trước” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện
xấu xí thì bi kịch của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã
hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46].
Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ
cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân gian trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật. Trong truyện
Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp “không còn là một
Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy: “Dù là
Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng
kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà được hòa
giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31].
Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà nghiên
cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu, mang vẻ đẹp mẫu
tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tỏ ra là người có
những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết tui không chúc bạn thuận buồm
xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy
Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì.
Ngược lại, trong các nhân vật nữ có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ.
Nó là sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó
là nguyên tắc tính nữ hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính
nữ” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất
cả những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là “tinh
thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng, huyền diệu,
lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm tựa quan trọng của tác
giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình.
Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu Văn Tâm:
Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích cực, tinh thần nhân
bản… cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật: tuyệt đại đa số những nhân vật
nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302). Qủa thực, trong truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiNhững nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có những phát
hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người Việt trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ
nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu.
Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ trong văn
Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những đặc điểm nổi bật
của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ. Đặc biệt hơn hết là trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các đoạn kể bằng văn vần là các bài ca
dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi. Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do
Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ
pháp cũ này khiến văn ông trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy
Khanh cũng có cùng ý kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có
những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59,
tr. 380].
Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình thức
khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ), thơ dịch
(Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)”.
Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm
linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có truyền thống trong văn học. Thành công của
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách
tân, sáng tạo nhưng vẫn không xa rời với truyền thống.
Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn Huy
Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” […]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu ấn của văn
học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy Thiệp không sống sượng
bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần thục biểu hiện trong chùm truyện
Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới
mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của
người đọc Việt Nam.
Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người kể
chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc
giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp
đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [33, tr.621].Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Đoàn Hương
nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một cốt truyện đơn giản như
chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng
của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33, tr.622].
Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo
từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết
thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hay như dẫn đưa của đầu và thân truyện” [59,
tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường có những đoạn
kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng.
Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy
Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy
Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời
sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc
sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59, tr.9-10].
Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi truyện cổ
tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng định: “nó vẫn là
cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626].
Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã chọn dịch
tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng là “đóng góp cho văn học
thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên trong truyện là vấn đề lớn mang tầm
nhân loại [59, tr.110-111].
Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa khẳng định rằng
có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu chuyện thể hiện tâm trạng và
cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về
một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một
cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó […].
Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến
nguyên tắc lạ hoá làm nền tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu
đi nữa thì “loại hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phicủa đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29]. Thêm
vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng “chắc chắn
không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những điều kiện lịch sử, xã hội trong
vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân táo bạo
trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới, nhưng sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn học dân gian đa dạng và
phong phú của dân tộc.
Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố văn hóa
dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được
sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học, độc
giả trong và ngoài nước. Các bài nghiên cứu, phê bình mà chúng tui có điều kiện tìm hiểu ở trên
phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện
ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề này. Tuy nhiên, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau
nên sự quan tâm ở những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát;
hay thu hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hay khái quát khi tiến hành khảo sát
trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất yếu, các
bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh hưởng của văn hóa
dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng đưa
đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh
hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau để tiến hành
nghiên cứu:
Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu
đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều vấn
đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn chỉ đi vào khảo sát,phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân
gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng
điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng góp hữu ích
như sau:
- Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự ảnh hưởng
của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó góp phần khẳng định
cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một trong những hướng nghiên cứu cần
thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay.
- Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về
tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, chúng tui đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp văn hóa học:
Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng các quan
điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng
điệu.
5.2. Phương pháp hệ thống:
Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian biểu
hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn
thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản, từ
đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự ảnh hưởng của
văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các phương diện như cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiNhững phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt
trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề,
người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu,
phương pháp thống kê,…với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh
hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4 trang),
phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương:
Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn
Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết làm tiền
đề lí luận cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng ta cần tìm hiểu hai khái niệm văn hóa
và văn hóa dân gian .
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa
người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con người với động vật, là
đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa về mặt sinh học mà có được
nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa là tất cả những gì do con người sáng
tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội.
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, theo nhà
nghiên cứu Trần Quốc Vượng: ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất
sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa
thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là
Lưu Hướng (năm 77-6 TCN) với nghĩa như một cách giáo hóa con người “văn trị giáo
hóa” [107, tr.17-18]. 6
Ở phương Tây, vào thế kỉ thứ III – TCN, người La Mã được ghi nhận là người đầu tiên
nói đến thuật ngữ văn hóa. Họ dùng từ “cultura” đồng nghĩa với “văn chương” hay “nhân văn”.
Người La Mã sử dụng từ cultura và cultus để chỉ việc gieo trồng, animi cultura hay cultus
nghĩa là gieo trồng tinh thần. Trên cơ sở đó, nhà hùng biện lỗi lạc người La Mã, Siserô Markơt
Tuliut (106-43 TCN) đã định nghĩa “Triết học là sự gieo trồng tinh thần”. Vậy theo người La
Mã, cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và
giáo dục, đào tạo một cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, có phẩm chất
tốt đẹp.
Ở Việt Nam, từ văn hóa được hiểu: văn là tốt đẹp, hóa là biến cải. Văn hóa là biến cải để
trở thành tốt đẹp. Văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống;
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn; còn theo nghĩa rộng thì văn
hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập
quán,…
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiVăn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội loài
người nhưng phải đến những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu về văn hóa
mới được tiến hành một cách nghiêm túc và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Từ năm 1952, hai nhà văn hóa học Hoa Kì là A. Kroeber và C. Kluckholn đã thống
kê được 150 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa. Con số đó hiện nay đã tăng lên
khoảng trên 300 định nghĩa [105, tr.11]. Qua đó, ta thấy quan niệm thế nào là văn hóa không
phải là một vấn đề đơn giản và có thể giải quyết một cách rốt ráo.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hóa, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tui chỉ có điều kiện
nêu ra một số định nghĩa sau:
- Nhà nhân học văn hóa người Anh E. B. Taylor (1832-1917) là người đầu tiên đưa ra
một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn hóa
nguyên thủy), ông viết: văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen mà con người
đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [9, tr.251].
- Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người
[…] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối
với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống
những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên phong cách
diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [107, tr.35-36]
- Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [85, tr. 25].
- Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Qúi Nhâm chú ý nhấn
mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc” [65, tr. 249].
Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tui nhận thấy quan niệm chính
thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong Hội nghị quốc tế do
Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục vànhững tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa
làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,
tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên
bản thân” [107, tr.23-24). Từ quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa không phải là lĩnh
vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội loài người.
Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì thế bất kì
khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy mà số lượng các
khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là đáp án cuối cùng. Mỗi khái
niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của văn hóa. Sự phong phú của các khái
niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm khác nhau. Vì vậy, theo nhà nghiên cứu Chu
Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ yếu, cơ bản sau:
“* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có.
* Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người:
đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.
* Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục.
* Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân
biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [9, tr.252].
Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tui chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi những giá
trị văn hóa tinh thần, biểu hiện cụ thể trong bộ phận văn hóa dân gian với những thành tố đặc
trưng.
1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian
Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam, văn hóa
dân gian là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên mọi phương diện.
Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình cảm con người Việt Nam nếu
như không hiểu văn hóa dân gian.
Thuật ngữ dân gian hiểu theo nghĩa chiết tự Hán Việt: gian nghĩa là khoảng, khu vực
rộng lớn, vùng; dân gian là trong khu vực, trong vùng của dân. Vậy, văn hóa dân gian là sáng
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận không thể tách rời
của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa tinh thần. Vì vậy, việc vận
dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp
cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi mới văn
học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu thuyết, phê bình văn
học, tiểu luận,... nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết phải với tư cách là một cây bút
viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã
trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá
yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma
lực” thu hút rất nhiều độc giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca
ngợi nức lời nhưng cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi
năm kể từ ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên
văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả thật, Nguyễn
Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không ngừng của biển cả văn
học Việt Nam.
Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tui nhận thấy đa phần các
ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông trên phương diện nội
dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên theo chúng tôi, một trong
những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn
hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tui thấy đặc điểm này
cũng đã có những bài viết đề cập đến song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành
một hệ thống trọn vẹn.
Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tui chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng Hua
Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo được tiếngvang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, dư luận mới
bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau đó, bộ ba truyện ngắn “lịch
sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã
thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực
đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên quả quyết: “tui dám chắc chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận,
càng viết dư luận càng mạnh” khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn”
[59, tr.6] như Nguyễn Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều
mà người chê cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và
phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới thiệu
trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, hiện
nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy đủ trong cuốn Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các trang mạng Internet khoảng mười
năm trở lại đây.
Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập trung ở
mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Hoàng
Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ, Philimonova, Phạm Xuân Nguyên,
Nguyễn Đăng Điệp,…Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm
nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có
liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn.
Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có sự
ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm hứng huyền thoại,
truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học Philimonova. Nhà nghiên cứu
người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của
các truyền thuyết văn học, Philimonova đã có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố
dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp […]. Ngay lần đọc đầu
tiên các tác phẩm của anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là
việc anh rất hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều
hiện diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có thể
nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng lớn” [59,
tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên cứu sự ảnh
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phihưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác giả cho rằng những
câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền thuyết văn học; một mặt,
chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng
có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61].
Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn Đăng
Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào văn học”. Tác
giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp “luôn luôn
lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường và xác định giá trị nhân thế
bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân
gian” [20].
Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những nét
phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền thoại mạnh:
“sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy Thiệp, không những
bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy thần) và cổ tích (Những
ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc,
Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288].
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện rõ trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các nhân vật ngốc
nghếch, mồ côi,…rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn
Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian” [59, tr.389]. Cảm hứng ấy một
phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ
dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59,
tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân
vật kể trên luôn ẩn chứa một “nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ
trong nhiều thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp.
Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích
trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề: “Xây dựng
nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới
quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ
tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu
nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh
Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệpkhông có cái nhìn nhất phiến về giai thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn
năm trước” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện
xấu xí thì bi kịch của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã
hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46].
Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ
cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân gian trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật. Trong truyện
Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp “không còn là một
Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy: “Dù là
Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng
kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà được hòa
giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31].
Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà nghiên
cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu, mang vẻ đẹp mẫu
tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tỏ ra là người có
những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết tui không chúc bạn thuận buồm
xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy
Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì.
Ngược lại, trong các nhân vật nữ có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ.
Nó là sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó
là nguyên tắc tính nữ hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính
nữ” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất
cả những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là “tinh
thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng, huyền diệu,
lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm tựa quan trọng của tác
giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình.
Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu Văn Tâm:
Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích cực, tinh thần nhân
bản… cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật: tuyệt đại đa số những nhân vật
nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302). Qủa thực, trong truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiNhững nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có những phát
hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người Việt trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ
nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu.
Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ trong văn
Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những đặc điểm nổi bật
của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ. Đặc biệt hơn hết là trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các đoạn kể bằng văn vần là các bài ca
dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi. Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do
Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ
pháp cũ này khiến văn ông trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy
Khanh cũng có cùng ý kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có
những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59,
tr. 380].
Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình thức
khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ), thơ dịch
(Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)”.
Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm
linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có truyền thống trong văn học. Thành công của
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách
tân, sáng tạo nhưng vẫn không xa rời với truyền thống.
Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn Huy
Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” […]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu ấn của văn
học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy Thiệp không sống sượng
bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần thục biểu hiện trong chùm truyện
Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới
mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của
người đọc Việt Nam.
Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người kể
chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc
giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp
đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [33, tr.621].Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Đoàn Hương
nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một cốt truyện đơn giản như
chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng
của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33, tr.622].
Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo
từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết
thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hay như dẫn đưa của đầu và thân truyện” [59,
tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường có những đoạn
kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng.
Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy
Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy
Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời
sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc
sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59, tr.9-10].
Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi truyện cổ
tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng định: “nó vẫn là
cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626].
Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã chọn dịch
tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng là “đóng góp cho văn học
thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên trong truyện là vấn đề lớn mang tầm
nhân loại [59, tr.110-111].
Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa khẳng định rằng
có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu chuyện thể hiện tâm trạng và
cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về
một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một
cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó […].
Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến
nguyên tắc lạ hoá làm nền tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu
đi nữa thì “loại hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phicủa đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29]. Thêm
vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng “chắc chắn
không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những điều kiện lịch sử, xã hội trong
vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân táo bạo
trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới, nhưng sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn học dân gian đa dạng và
phong phú của dân tộc.
Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố văn hóa
dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được
sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học, độc
giả trong và ngoài nước. Các bài nghiên cứu, phê bình mà chúng tui có điều kiện tìm hiểu ở trên
phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện
ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề này. Tuy nhiên, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau
nên sự quan tâm ở những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát;
hay thu hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hay khái quát khi tiến hành khảo sát
trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất yếu, các
bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh hưởng của văn hóa
dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng đưa
đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh
hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau để tiến hành
nghiên cứu:
Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu
đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều vấn
đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn chỉ đi vào khảo sát,phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân
gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng
điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng góp hữu ích
như sau:
- Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự ảnh hưởng
của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó góp phần khẳng định
cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một trong những hướng nghiên cứu cần
thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay.
- Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về
tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, chúng tui đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp văn hóa học:
Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng các quan
điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng
điệu.
5.2. Phương pháp hệ thống:
Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian biểu
hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn
thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản, từ
đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự ảnh hưởng của
văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các phương diện như cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiNhững phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt
trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề,
người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu,
phương pháp thống kê,…với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh
hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4 trang),
phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương:
Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn
Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết làm tiền
đề lí luận cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng ta cần tìm hiểu hai khái niệm văn hóa
và văn hóa dân gian .
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa
người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con người với động vật, là
đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa về mặt sinh học mà có được
nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa là tất cả những gì do con người sáng
tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội.
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, theo nhà
nghiên cứu Trần Quốc Vượng: ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất
sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa
thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là
Lưu Hướng (năm 77-6 TCN) với nghĩa như một cách giáo hóa con người “văn trị giáo
hóa” [107, tr.17-18]. 6
Ở phương Tây, vào thế kỉ thứ III – TCN, người La Mã được ghi nhận là người đầu tiên
nói đến thuật ngữ văn hóa. Họ dùng từ “cultura” đồng nghĩa với “văn chương” hay “nhân văn”.
Người La Mã sử dụng từ cultura và cultus để chỉ việc gieo trồng, animi cultura hay cultus
nghĩa là gieo trồng tinh thần. Trên cơ sở đó, nhà hùng biện lỗi lạc người La Mã, Siserô Markơt
Tuliut (106-43 TCN) đã định nghĩa “Triết học là sự gieo trồng tinh thần”. Vậy theo người La
Mã, cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và
giáo dục, đào tạo một cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, có phẩm chất
tốt đẹp.
Ở Việt Nam, từ văn hóa được hiểu: văn là tốt đẹp, hóa là biến cải. Văn hóa là biến cải để
trở thành tốt đẹp. Văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống;
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn; còn theo nghĩa rộng thì văn
hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập
quán,…
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiVăn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội loài
người nhưng phải đến những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu về văn hóa
mới được tiến hành một cách nghiêm túc và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Từ năm 1952, hai nhà văn hóa học Hoa Kì là A. Kroeber và C. Kluckholn đã thống
kê được 150 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa. Con số đó hiện nay đã tăng lên
khoảng trên 300 định nghĩa [105, tr.11]. Qua đó, ta thấy quan niệm thế nào là văn hóa không
phải là một vấn đề đơn giản và có thể giải quyết một cách rốt ráo.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hóa, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tui chỉ có điều kiện
nêu ra một số định nghĩa sau:
- Nhà nhân học văn hóa người Anh E. B. Taylor (1832-1917) là người đầu tiên đưa ra
một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn hóa
nguyên thủy), ông viết: văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen mà con người
đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [9, tr.251].
- Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người
[…] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối
với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống
những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên phong cách
diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [107, tr.35-36]
- Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [85, tr. 25].
- Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Qúi Nhâm chú ý nhấn
mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc” [65, tr. 249].
Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tui nhận thấy quan niệm chính
thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong Hội nghị quốc tế do
Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục vànhững tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa
làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,
tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên
bản thân” [107, tr.23-24). Từ quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa không phải là lĩnh
vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội loài người.
Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì thế bất kì
khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy mà số lượng các
khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là đáp án cuối cùng. Mỗi khái
niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của văn hóa. Sự phong phú của các khái
niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm khác nhau. Vì vậy, theo nhà nghiên cứu Chu
Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ yếu, cơ bản sau:
“* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có.
* Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người:
đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.
* Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục.
* Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân
biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [9, tr.252].
Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tui chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi những giá
trị văn hóa tinh thần, biểu hiện cụ thể trong bộ phận văn hóa dân gian với những thành tố đặc
trưng.
1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian
Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam, văn hóa
dân gian là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên mọi phương diện.
Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình cảm con người Việt Nam nếu
như không hiểu văn hóa dân gian.
Thuật ngữ dân gian hiểu theo nghĩa chiết tự Hán Việt: gian nghĩa là khoảng, khu vực
rộng lớn, vùng; dân gian là trong khu vực, trong vùng của dân. Vậy, văn hóa dân gian là sáng
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Chảy đi sông ơi của Nguyễn Huy Thiệp, Ý nghãi nhan đề Chảy đi sông ơi của Nguyễn Huy Thiệp, phân tích Nhân vật cổ tích trong truyện “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp, văn hóa dân gian trong truyện ngắn, đề tài thiên nhiên trong văn nguyễn huy thiệp, Dấu ấn văn học dân gian trong tác phẩm Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp, dấu ấn văn học dân gian trong những ngọn gió hua tát ở chuyện thứ nhất
Last edited by a moderator: