nhock_quang
New Member
Download Đề tài Áp dụng một số công cụ phân tích hệ thống cho dự án du lịch sinh thái tại rừng Trà Sư miễn phí
Sắp xếp chiến lược
1. Lập dự án vay vốn, kều gọi đầu tư của các thành phần kinh tế, phát triển du lịch sinh thái rừng Trà sư;
2. Huấn luyện, nâng cao công tác quản lý, bảo vệ rừng cho đội ngũ ban quản lý rừng;
3. Có cơ chế thu hút sự tham gia hỗ trợ của các chuyên gia về du lịch sinh thái;
4. Đào tạo cho đội ngũ hướng dẫn viên về du lịch sinh thái;
5. Xây dựng chương trình giáo dục, nâng cao ý thức nhận thức cộng đồng;
6. Lập dự án kêu gọi hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ để bảo tồn hệ sinh thái rừng;
7. Quảng bá hình ảnh rừng Trà sư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
8. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để thu hút các nhà đầu tư;
9. Xây dựng những quy định, hướng dẫn du khách về bảo vệ môi trường và hệ sinh thái rừng khi đi tham quan;
10. Đẩy mạnh công tác xử lý các hành vi xâm hại hệ sinh thái rừng;
11. Xây dựng hệ thống thu gom và xử lý chất thải phát sinh từ hoạt động du lịch;
12. Hướng dẫn, hỗ trợ cồng động dân cư xung quanh tham gia làm du lịch sinh thái;
13. Theo dõi, giám sát phòng ngừa cúm gia cầm.
Khu vực này chịu ảnh hưởng của 2 mùa gió là : gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc.
Gió Tây Nam mát và ẩm nên gây ra mùa mưa.
Gió mùa Đông Bắc thổi vào An Giang xuất phát từ biển nhiệt đới phía Trung Quốc, nên có nhiệt độ cao và có độ ẩm lớn, hanh khô, có phần nắng nóng.
Nhiệt độ trung bình cao và còn rất ổn định. Chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong mùa khô chỉ hơn kém nhau khoảng 1,5° đến 3° ; còn trong các tháng mùa mưa chỉ vào khoảng trên dưới 1° . Nhiệt độ cao nhất năm thường xuất hiện vào tháng 4, dao động trong khoảng 36°- 38° ; nhiệt độ thấp nhất năm thường xuất hiện vào tháng 10 dưới 18°.
Mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 11. Tổng lượng mưa mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa năm.
Trong mùa khô do nắng nhiều, độ ẩm không khí thấp nên lượng bốc hơi lớn, bình quân 110mm/tháng (vào tháng 3 có tới 160mm) . Trong mùa mưa , lượng bốc hơi thấp hơn, bình quân 85mm/tháng , nhỏ nhất khoảng 52mm/tháng xuất hiện vào tháng 9 hay tháng 10, là thời kỳ có mưa nhiều, độ ẩm cao.
I.2.3. Địa hình
Khu vực nằm trong đồng bằng sông Cửu Long nên có địa hình bằng phẳng.
I.2.4. Đặc điểm địa chất
Đất ở rừng Trà Sư thuộc loại đất than bùn chứa phèn.
Nhóm đất này được hình thành do quá trình biển tiến cách đây 6.000 năm để lại, đặc biệt trong môi trường vũng vịnh biển nông, trên đó rừng ngập mặn phát triển mạnh mẽ như đước, sú, mắm…Các loại thực vật này thường tích lũy chất lưu huỳnh trong thân và rễ dưới dạng các hợp chất hữu cơ. Khi những khu rừng này bị vùi lấp, xác của chúng được các vi sinh vật yếm khí phân hủy và thải lưu huỳnh ra môi trường dưới dạng sunfit. Chúng kết hợp với các ion kim loại sắt, nhôm vừa được dòng nước mang đến từ lục địa tạo thành những lớp đất chứa nhiều pyrite. Pyrite chứa trong tầng trầm tích đầm lầy còn gọi là tầng phèn tiềm tàng, nhưng chúng lại dễ bị oxy hóa trong điều kiện tiếp xúc với không khí.
Loại đất này được đặc trưng bởi lớp than bùn dày, xốp bên dưới thường phân bố dọc theo các thung lũng sông cổ và lung đìa. Trong đất than bùn độ khoáng tương đối thấp và cùng kiệt nàn nhưng bù lại hàm lượng đạm rất cao; được phân bố dọc theo thung lũng sông cổ ở Tri Tôn, ven theo các cánh rừng tràm Trà Sư, một số ở các xã Lương An Trà , Tà Đảnh.
I.2.5. Chế độ thủy văn
Nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nên rừng Trà Sư không thoát khỏi qui luật: sáu tháng ngập nước, sáu tháng khô. Trà Sư là khu vực ngập nước theo mùa bởi lũ từ sông Bassac. Vào mùa nước nổi, rừng Trà Sư như một ốc đảo xanh giữa biển nước mênh mông trắng xoá.
Chênh lệch giữa triều lên và triều xuống (biên độ triều) thường xấp xỉ nhau. Trong một năm, biên độ triều của các trạm ven sông có những biến động mạnh mẽ. Vào mùa kiệt, biên độ triều tăng dần và đạt trị số lớn nhất vào tháng 4 hay tháng 5. Tiếp đó mùa lũ về, biên độ triều giảm và đạt trị số nhỏ nhất vào tháng 9 hay tháng 10.
Ban quản lý rừng đã cho đào một con kênh bao chung quanh để bảo vệ trong những tháng khô, ngăn không cho kẻ lạ xâm nhập với mục đích xấu và nhằm giữ nước cho hệ sinh thái của rừng.
I.2.6. Tài nguyên
Đây là nơi cư trú của nhiều loài chim nước, động vật hoang dã và thủy sinh vật thuộc hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam.
I.2.6.1. Tài nguyên động vật
Là hệ sinh thái rừng ngập nước đã được các ngành, các cấp giữ gìn cẩn thận như giữ gìn báo vật. Trong nhiều năm qua, khu vực này không bị cháy, không bị chặt phá và ít bị tác động bởi những hoạt động của con người. Chính vì vậy, nơi đây tạo được niềm tin của các loài chim quý hiếm, cá, thuỷ sinh vật đặc trưng tìm đến khi lũ tràn về, chọn làm nơi cư trú thích hợp để sinh sản.
Khu hệ chim thì có thể nói là rất đa dạng và phong phú. Hiện nay, đây là nơi cư trú của 70 loài chim thuộc 13 bộ và 31 họ, trong đó nhiều nhất là bộ sẻ với 26 loài; đặc biệt có 2 loài chim quí hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam là cò Lạo Ấn Độ (Mycteria leucocephala) và Cổ rắn Điêng Điểng (Anhinga melanogaster). Trên những vùng hiện còn rừng, Trà Sư vẫn còn lưu giữ trên 62 loài chim nước (Nguyễn Cữ, IEBR). Nhiều loài quí hiếm đang bị đe doạ trong vùng hay toàn cầu. Đó là Diệc lửa (A. purpurea) đặc trưng của vùng ĐBSCL, Rồng rộc vàng (Ploceus hypoxanthus) cũng là loài gần bị đe dọa toàn cầu, phân bố ở rất ít điểm ở ĐBSCL (như Tràm Chim, Trà Sư), loài Vạc Nycticorax nycticorax và Cốc đế nhỏ Phalacrocorax niger
Ngoài ra, nơi đây còn là nơi di trú theo mùa của Sếu đầu đỏ (Sarus crane), được phát hiện từ những năm 1992 (Lê Diên Dực), hay loài Bồ nông chân xám (Pelecanus philippensis) và loài sắp bị đe dọa toàn cầu là Giang sen (Mycteria leucocephala) (Seng Kim Hout et al. 2003) nay vẫn tìm về hàng năm, với số lượng gần trăm con trong mùa nước rút.
Ngoài chim muông, theo số liệu khảo sát bước đầu của một số nhà khoa học cho biết, về hệ động vật hoang dã đã tồn tại, nơi đây đã có đến 11 loài thú trong 6 họ và 4 bộ. Ngoài ra, còn có 20 loài bò sát và 5 loài ếch nhái, là những loài phổ biến cũng xuất hiện trong khu vực. Về loài cá thì có 23 loài, là những loài có giá trị kinh tế cao .
Do việc bảo tồn rừng Tràm Trà Sư thành khu vực bảo vệ cảnh quan, số lượng và mật độ của nhiều loài chim, cá, bò sát ngày càng đông. Điều này chứng tỏ sự ổn định và khả năng hồi phục rất nhanh của hệ sinh thái đa dạng này nếu được duy trì bảo vệ.
I.2.6.2. Tài nguyên thực vật
Rừng là nơi qui tụ 11 sinh cảnh thực vật rừng. Hệ thực vật nơi đây cũng rất phong phú và đa dạng với 140 loài, thuộc 52 họ và 102 chi; trong đó có 22 loài cây gỗ, 25 loài cây bụi, 10 loài dây leo, 70 loài cỏ và 13 loài thủy sinh. Nếu xét theo tỉ lệ tổng số loài thực vật so với tổng diện tích khu vực điều tra thì khu vực này có tỷ tệ khá cao, đứng thứ hai khu bảo tồn thiên nhiên khu vực ĐBSCL, sau Xẻo Quít tỉnh Đồng Tháp.
Thực vật chiếm ưu thế ở vùng này trước kia là tràm thuộc họ sim, mọc ở trũng thấp. Ngoài tràm, còn có nhiều loài thực vật thuộc các họ khác nhau, trong đó có nhiều loài có giá trị phát triển và khai thác. Thảm thực vật của hệ sinh thái này có vai trò ngăn cản quá trình pyrits (oxid hóa khoáng sinh phèn) và quá trình jarosite (khoáng phèn) ở tầng đất dưới, đồng thời góp phần điều hòa khí hậu, độ ẩm, cản dòng chảy, làm tồn đọng phù sa.
Rừng tràm ở An Giang là kiểu rừng có những cây thẳng đứng cao từ 15-20m , có khi đạt tới 25m, xen kẻ lẻ một số cây gừa, mật cật, tràm sẻ, cà dăm…, tầng dưới hợp bởi các cây mua, sậy, để, dây cương, choại…
Ở ven bìa khu vực rừng tràm, trên các vùng đất khô cằn, bạc màu, ít ngập nước, còn xen lẫn với 1 số thực vật trong vùng như: mun, chổi, sim, mai đực, mồng gà…
Các vùng ngập nước kéo dài, còn có các loài sen, súng, lúa ma, mồm mở, rau muống, rau dừa, nghễ, bèo tai chuột…
Ven rừng còn có các loại bình bát, gừa, trâm, mây nước, bòng bong, dây vác, dây mủ, dây cương, dây choại và các cây bụi thấp như ô rô, cóc kèn, ráng dại, mua…
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Sắp xếp chiến lược
1. Lập dự án vay vốn, kều gọi đầu tư của các thành phần kinh tế, phát triển du lịch sinh thái rừng Trà sư;
2. Huấn luyện, nâng cao công tác quản lý, bảo vệ rừng cho đội ngũ ban quản lý rừng;
3. Có cơ chế thu hút sự tham gia hỗ trợ của các chuyên gia về du lịch sinh thái;
4. Đào tạo cho đội ngũ hướng dẫn viên về du lịch sinh thái;
5. Xây dựng chương trình giáo dục, nâng cao ý thức nhận thức cộng đồng;
6. Lập dự án kêu gọi hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ để bảo tồn hệ sinh thái rừng;
7. Quảng bá hình ảnh rừng Trà sư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
8. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để thu hút các nhà đầu tư;
9. Xây dựng những quy định, hướng dẫn du khách về bảo vệ môi trường và hệ sinh thái rừng khi đi tham quan;
10. Đẩy mạnh công tác xử lý các hành vi xâm hại hệ sinh thái rừng;
11. Xây dựng hệ thống thu gom và xử lý chất thải phát sinh từ hoạt động du lịch;
12. Hướng dẫn, hỗ trợ cồng động dân cư xung quanh tham gia làm du lịch sinh thái;
13. Theo dõi, giám sát phòng ngừa cúm gia cầm.
Khu vực này chịu ảnh hưởng của 2 mùa gió là : gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc.
Gió Tây Nam mát và ẩm nên gây ra mùa mưa.
Gió mùa Đông Bắc thổi vào An Giang xuất phát từ biển nhiệt đới phía Trung Quốc, nên có nhiệt độ cao và có độ ẩm lớn, hanh khô, có phần nắng nóng.
Nhiệt độ trung bình cao và còn rất ổn định. Chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong mùa khô chỉ hơn kém nhau khoảng 1,5° đến 3° ; còn trong các tháng mùa mưa chỉ vào khoảng trên dưới 1° . Nhiệt độ cao nhất năm thường xuất hiện vào tháng 4, dao động trong khoảng 36°- 38° ; nhiệt độ thấp nhất năm thường xuất hiện vào tháng 10 dưới 18°.
Mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 11. Tổng lượng mưa mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa năm.
Trong mùa khô do nắng nhiều, độ ẩm không khí thấp nên lượng bốc hơi lớn, bình quân 110mm/tháng (vào tháng 3 có tới 160mm) . Trong mùa mưa , lượng bốc hơi thấp hơn, bình quân 85mm/tháng , nhỏ nhất khoảng 52mm/tháng xuất hiện vào tháng 9 hay tháng 10, là thời kỳ có mưa nhiều, độ ẩm cao.
I.2.3. Địa hình
Khu vực nằm trong đồng bằng sông Cửu Long nên có địa hình bằng phẳng.
I.2.4. Đặc điểm địa chất
Đất ở rừng Trà Sư thuộc loại đất than bùn chứa phèn.
Nhóm đất này được hình thành do quá trình biển tiến cách đây 6.000 năm để lại, đặc biệt trong môi trường vũng vịnh biển nông, trên đó rừng ngập mặn phát triển mạnh mẽ như đước, sú, mắm…Các loại thực vật này thường tích lũy chất lưu huỳnh trong thân và rễ dưới dạng các hợp chất hữu cơ. Khi những khu rừng này bị vùi lấp, xác của chúng được các vi sinh vật yếm khí phân hủy và thải lưu huỳnh ra môi trường dưới dạng sunfit. Chúng kết hợp với các ion kim loại sắt, nhôm vừa được dòng nước mang đến từ lục địa tạo thành những lớp đất chứa nhiều pyrite. Pyrite chứa trong tầng trầm tích đầm lầy còn gọi là tầng phèn tiềm tàng, nhưng chúng lại dễ bị oxy hóa trong điều kiện tiếp xúc với không khí.
Loại đất này được đặc trưng bởi lớp than bùn dày, xốp bên dưới thường phân bố dọc theo các thung lũng sông cổ và lung đìa. Trong đất than bùn độ khoáng tương đối thấp và cùng kiệt nàn nhưng bù lại hàm lượng đạm rất cao; được phân bố dọc theo thung lũng sông cổ ở Tri Tôn, ven theo các cánh rừng tràm Trà Sư, một số ở các xã Lương An Trà , Tà Đảnh.
I.2.5. Chế độ thủy văn
Nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nên rừng Trà Sư không thoát khỏi qui luật: sáu tháng ngập nước, sáu tháng khô. Trà Sư là khu vực ngập nước theo mùa bởi lũ từ sông Bassac. Vào mùa nước nổi, rừng Trà Sư như một ốc đảo xanh giữa biển nước mênh mông trắng xoá.
Chênh lệch giữa triều lên và triều xuống (biên độ triều) thường xấp xỉ nhau. Trong một năm, biên độ triều của các trạm ven sông có những biến động mạnh mẽ. Vào mùa kiệt, biên độ triều tăng dần và đạt trị số lớn nhất vào tháng 4 hay tháng 5. Tiếp đó mùa lũ về, biên độ triều giảm và đạt trị số nhỏ nhất vào tháng 9 hay tháng 10.
Ban quản lý rừng đã cho đào một con kênh bao chung quanh để bảo vệ trong những tháng khô, ngăn không cho kẻ lạ xâm nhập với mục đích xấu và nhằm giữ nước cho hệ sinh thái của rừng.
I.2.6. Tài nguyên
Đây là nơi cư trú của nhiều loài chim nước, động vật hoang dã và thủy sinh vật thuộc hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam.
I.2.6.1. Tài nguyên động vật
Là hệ sinh thái rừng ngập nước đã được các ngành, các cấp giữ gìn cẩn thận như giữ gìn báo vật. Trong nhiều năm qua, khu vực này không bị cháy, không bị chặt phá và ít bị tác động bởi những hoạt động của con người. Chính vì vậy, nơi đây tạo được niềm tin của các loài chim quý hiếm, cá, thuỷ sinh vật đặc trưng tìm đến khi lũ tràn về, chọn làm nơi cư trú thích hợp để sinh sản.
Khu hệ chim thì có thể nói là rất đa dạng và phong phú. Hiện nay, đây là nơi cư trú của 70 loài chim thuộc 13 bộ và 31 họ, trong đó nhiều nhất là bộ sẻ với 26 loài; đặc biệt có 2 loài chim quí hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam là cò Lạo Ấn Độ (Mycteria leucocephala) và Cổ rắn Điêng Điểng (Anhinga melanogaster). Trên những vùng hiện còn rừng, Trà Sư vẫn còn lưu giữ trên 62 loài chim nước (Nguyễn Cữ, IEBR). Nhiều loài quí hiếm đang bị đe doạ trong vùng hay toàn cầu. Đó là Diệc lửa (A. purpurea) đặc trưng của vùng ĐBSCL, Rồng rộc vàng (Ploceus hypoxanthus) cũng là loài gần bị đe dọa toàn cầu, phân bố ở rất ít điểm ở ĐBSCL (như Tràm Chim, Trà Sư), loài Vạc Nycticorax nycticorax và Cốc đế nhỏ Phalacrocorax niger
Ngoài ra, nơi đây còn là nơi di trú theo mùa của Sếu đầu đỏ (Sarus crane), được phát hiện từ những năm 1992 (Lê Diên Dực), hay loài Bồ nông chân xám (Pelecanus philippensis) và loài sắp bị đe dọa toàn cầu là Giang sen (Mycteria leucocephala) (Seng Kim Hout et al. 2003) nay vẫn tìm về hàng năm, với số lượng gần trăm con trong mùa nước rút.
Ngoài chim muông, theo số liệu khảo sát bước đầu của một số nhà khoa học cho biết, về hệ động vật hoang dã đã tồn tại, nơi đây đã có đến 11 loài thú trong 6 họ và 4 bộ. Ngoài ra, còn có 20 loài bò sát và 5 loài ếch nhái, là những loài phổ biến cũng xuất hiện trong khu vực. Về loài cá thì có 23 loài, là những loài có giá trị kinh tế cao .
Do việc bảo tồn rừng Tràm Trà Sư thành khu vực bảo vệ cảnh quan, số lượng và mật độ của nhiều loài chim, cá, bò sát ngày càng đông. Điều này chứng tỏ sự ổn định và khả năng hồi phục rất nhanh của hệ sinh thái đa dạng này nếu được duy trì bảo vệ.
I.2.6.2. Tài nguyên thực vật
Rừng là nơi qui tụ 11 sinh cảnh thực vật rừng. Hệ thực vật nơi đây cũng rất phong phú và đa dạng với 140 loài, thuộc 52 họ và 102 chi; trong đó có 22 loài cây gỗ, 25 loài cây bụi, 10 loài dây leo, 70 loài cỏ và 13 loài thủy sinh. Nếu xét theo tỉ lệ tổng số loài thực vật so với tổng diện tích khu vực điều tra thì khu vực này có tỷ tệ khá cao, đứng thứ hai khu bảo tồn thiên nhiên khu vực ĐBSCL, sau Xẻo Quít tỉnh Đồng Tháp.
Thực vật chiếm ưu thế ở vùng này trước kia là tràm thuộc họ sim, mọc ở trũng thấp. Ngoài tràm, còn có nhiều loài thực vật thuộc các họ khác nhau, trong đó có nhiều loài có giá trị phát triển và khai thác. Thảm thực vật của hệ sinh thái này có vai trò ngăn cản quá trình pyrits (oxid hóa khoáng sinh phèn) và quá trình jarosite (khoáng phèn) ở tầng đất dưới, đồng thời góp phần điều hòa khí hậu, độ ẩm, cản dòng chảy, làm tồn đọng phù sa.
Rừng tràm ở An Giang là kiểu rừng có những cây thẳng đứng cao từ 15-20m , có khi đạt tới 25m, xen kẻ lẻ một số cây gừa, mật cật, tràm sẻ, cà dăm…, tầng dưới hợp bởi các cây mua, sậy, để, dây cương, choại…
Ở ven bìa khu vực rừng tràm, trên các vùng đất khô cằn, bạc màu, ít ngập nước, còn xen lẫn với 1 số thực vật trong vùng như: mun, chổi, sim, mai đực, mồng gà…
Các vùng ngập nước kéo dài, còn có các loài sen, súng, lúa ma, mồm mở, rau muống, rau dừa, nghễ, bèo tai chuột…
Ven rừng còn có các loại bình bát, gừa, trâm, mây nước, bòng bong, dây vác, dây mủ, dây cương, dây choại và các cây bụi thấp như ô rô, cóc kèn, ráng dại, mua…
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links