hoangan5599

New Member

Download miễn phí Bài giảng Đại cương lịch sử triết học





Trần Thái Tông đã viết trong “Thiền tông chỉ nam” rằng: “Cái phương tiện để mở lòng mê muội, cái đường lối soi rõ sống chết chính là đại giáo của Đức Phật. Giữ cán cân để làm mức cho hậu thế, nêu khuôn phép cho tương lai là trách nhiệm nặng nề của tiên thánh vậy” .
Chu Văn An, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu là những đại biểu trung thành của Nho giáo. Vấn đề quan tâm đầu tiên của các Nho sỹ thời Trần là đường lối đức trị: vua sáng tôi lành cùng đồng tâm hiệp đức để trị nước yên dân. Vua có đức sáng, quan mẫn cán trung thành nên ân trạch thấm thía đến dân chúng khiến trăm họ được an ninh, hạnh phúc. Họ coi đức sáng của vua là điều kiện tiên quyết làm cho đất nước thịnh trị. Vì vậy họ thường khuyên vua phải chính tâm tu thân, phải thường xuyên sửa đức. Họ cũng bàn đến bạo lực của nhà nước phong kiến và sự hiểm trở của đất đai nhưng chỉ là thứ yếu sau đường lối đức trị. “Thiên hưng Địa thế hùng thay, Cõi Nam tru cột xưa nay đời đời; Muôn năm đế nghiệp lâu dài, Chẳng cần đất hiểm nhờ nơi đức lành”.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

iều hòa các mặt đối lập, nhưng thủ tiêu mâu thuẫn chứ không giải quyết mâu thuẫn, không thấy được quá trình đấu tranh chuyển hóa giữa các mặt đối lập.
Ba là: Xuất phát từ nhận thức luận coi sự hiểu biết của con người không cần qua thực tiễn, không cần đến tri thức kinh nghiệm (Không ra khỏi nhà mà biết được việc của thiên hạ, không nhìn ra ngoài cửa mà biết được đạo trời, càng đi xa càng biết ít) nên cốt lõi quan điểm chính trị - xã hội của Lão Tử là luận điểm “vô vi”.
Vô vi không phải là thụ động, bất động hay không hành động mà là hành động theo bản tính tự nhiên, thuần phác, không hành động một cách giả tạo gò ép trái với bản tính tự nhiên của đạo. Nếu áp đặt ý chí của mình vào sự vật, hiện tượng là trái với vô vi. Con người không cần can thiệp vào xã hội mà để nó phát triển tự nhiên, con người càng bày đặt ra nhiều càng khó trị. Con người cũng không nên rèn mình mà cứ để cho nó phát triển theo bản tính tự nhiên vốn có. Trong cuộc sống con người không nên tranh giành, cái gì đến nó sẽ đến, cái gì đi nó sẽ đi.
Từ đó, tuy Đạo gia đề cao những tư tưởng về từ, ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung, tri túc... nhưng trên cơ sở phải từ bỏ những gì là nhân tạo thiếu tính đạo pháp tự nhiên. Quan niệm này đã dẫn đến chủ trương một cuộc sống, một phong cách sông đạo chối bỏ mọi truyền thống nhân tạo: những chuẩn mực đạo đức, pháp luật ... xa lánh tri thức, kỹ xảo, công nghệ. Thực chất, đây là tư tưởng phục cổ, quay về với xã hội theo mô hình cộng sản nguyên thủy.
Triết học Trang Tử.
Trang Tử (369 -286 tcn), tên thật là Trang Chu, ông sinh ra trong một gia đình quý tộc Tống bị sa sút. Tư tưởng của Trang Tử thể hiện rõ trong cuốn Nam hoa kinh.
Trang Tử đã xuyên tạc quan niệm về đạo của Lão tử theo hướng duy tâm. Trang Tử cho rằng đạo là thứ siêu cảm giác, siêu không gian, siêu thời gian.
Theo Trang Tử, sự vật, hiện tượng luôn biến đổi, nhưng tất cả chỉ là tương đối, không có gì là tuyệt đối cả, không có cái gì là cái chuẩn cho cái khác noi theo. Với chủ nghĩa tương đối này, Trang Tử đã đánh ngang bằng mọi sự cách biệt đối lập nhau, coi phải trái như nhau, lớn bé như nhau, sống chết như nhau...
Từ phương pháp luận đó và trên cơ sở nhận thức luận đề cao những hình ảnh giả tưởng: đẹp, xấu, thiện, ác ... là do con người đặt ra, còn về khách quan là không có thật (Ông là người đề xuất mâu thuẫn giữa chủ thể với khách thể, giữa ngôn ngữ và khái niệm) ông đưa ra một học thuyết chính trị -xã hội gồm các điểm cơ bản sau:
+ Sống tự do tự tại, thụ động trước số phận, gặp sao hay vậy, không thắc mắc không than phiền.
+ Sống theo bản tính tự nhiên, không gò bó không ràng buộc. Quan niệm này thể hiện nhu cầu giải phóng cá tính con người.
+ Đời người ngắn như một giấc mộng do vậy không nên khổ tâm và lao lực mà gì. cần coi sống, chết như nhau, đời là một cuộc giải trí, một cõi mộng.
+ Cần coi mọi tồn tại đều hợp lý, do vậy sống trên đời thì “yên theo thời mà thuận” không nên khen, chê đắn đo phải, trái mà chi, vì thế là trái với đạo tự nhiên.
Những quan niệm trên cho thấy Lão giáo là một đối trọng của Nho giáo. Lão giáo khi truyền sang Việt Nam đã tạo nên một trong các yếu tố cấu thành tư tưởng của người Việt.
Trường phái Pháp gia.
Người sáng lập trường phái này là Hàn Phi (280-233 tcn). Ông xuất thân trong một gia đình khá giả của nước Hàn thời Chiến Quốc.
Tư tưởng triết học của ông có nhiều yếu tố duy vật. Ông kế thừa và phát triển những yếu tố duy vật về tự nhiên của Tuân Tử và Lão Tử, thừa nhận tính khách quan trong sự phát triển của thế giới trên tinh thần vô thần.
Tư tưởng biện chứng của ông biểu hiện ở các điểm sau: Ông cho rằng vạn vật luôn biến hóa bất thường, do đó cũng không có pháp luật nào là luôn đúng với mọi giai đoạn phát triển lịch sử. Lịch sử xã hội loài người là luôn biến đổi, không có chế độ xã hội nào là vĩnh viễn tồn tại. Xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ hơn xã hội trước. Ông cũng đã nhìn thấy sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập trong mọi tồn tại.
Trên cơ sở đề cao nhận thức phải dựa vào các giác quan và tư duy để nắm cho bằng được cái lý của vạn vật và thế giới quan mang tính duy vật, ông đề xuất học thuyết chính trị - xã hội khá tiến bộ đối với lịch sử lúc ấy: Trên cơ sở các quan niệm về “pháp” của Thương Ưởng, “thế” của Thần Đáo, “thuật” của Thân Bất Hại, học thuyết chính trị - xã hội của ông như là một sự hệ thống học thuyết về “đạo” của Đạo gia và học thuyết “chính danh” của Nho gia. Ông chủ trương đổi mới chế độ chính trị theo đường lối “pháp trị” chú trọng đến thực tế, đến sản xuất vật chất và lợi ích của con người.
Tư tưởng của Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng hết sức đề cao, nó là vũ khí lý luận quan trọng đưa lại thành công của Tần Thủy Hoàng trong việc thống nhất Trung Quốc. Ở Việt Nam thời Minh Mạng, vua cũng rất đề cao tư tưởng của Hàn Phi trong việc sửa trị quốc pháp.
Trường phái Mặc gia.
Mặc Địch (479 - 381 tcn) người nước Lỗ sống thời Chiến Quốc, là người sáng lập ra phái Mặc gia, một trong các trường phái triết học đối trọng với Nho gia và quan trọng của Trung Quốc cổ đại.
Tư tưởng phái Mặc gia phản ánh nguyện vọng của tầng lớp nông dân tự do, sản xuất nhỏ, tiểu tư hữu. Có thể tóm tắt tư tưởng triết học của Mặc gia ở một số điểm sau:
+ Kiêm ái (yêu thương lẫn nhau).
+ Phi công (không tấn công lẫn nhau).
+ Thượng hiền (Tôn trọng bậc hiền tài).
+ Thượng đồng (tôn trọng sự bình đẳng và đề cao chữ hòa).
+ Ý trời (coi trong thiên ý, đề cao mệnh trời).
+ Minh quỷ (làm rõ ma quỷ, mang tính vô thần).
+ Tiết kiệm (tiêu dùng phải tiết kiệm).
+ Phi mệnh (không tin vào số mệnh).
Ngoài ra phái Mặc gia còn có những cống hiến khá xuất sắc về nhận thức luận và lôgic học.
CHƯƠNG IV: NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT
CỦA LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ .
Thời tiền sử và sơ sử:
Dấu hiệu người nguyên thủy có nhiều ở núi Đọ, núi Nuông thuộc Quảng Yên, Thanh Hóa. Văn hóa người nguyên thủy còn gọi là văn hóa Hòa Bình, hiện chúng ta đã tìm được hơn 120 văn hóa Sơn vĩ ngoài trời và trong hang động, tập trung nhiều nhất ở Lai Châu, Hòa Bình (119 di tích) còn lại là rải rác ở Thanh Hóa, Bình - Trị - Thiên. Nền văn hóa này kéo dài cách ngày nay khoảng từ 7.000 - 12.000 năm.
Cuối thời đồ đá mới cách đây trên 5.000 năm, con người đã sống khắp trên lãnh thổ Việt Nam. Văn hóa khá đơn giản, mới chỉ là sự hình thành loại nông lịch sơ khai. Người Việt cổ đại rất tin ở thế giới bên kia với một thế giới cũng là nông nghiệp. Người Việt cổ đại tôn thờ các sức mạnh tự nhiên như mưa, gió, nắng. Mưa, gió, mặt trời là các vị thần quan trọng nhất trong đời sống tinh thần người Việt cổ đại.
Thời kỳ buổi đầu dựng nước:
Thời kỳ này cách đây từ hơn 2.000 năm đến 5.000 năm, gọi là văn hóa Đông Sơn.
Từ 2879 tcn đến 258 tcn là thời kỳ hình thành cốt lõi đầu...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top