Download miễn phí Tiểu luận Bàn về khái niệm quản lý - Quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp những vấn đề có thể rút ra từ 3 khái niệm này
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ VÀ QUẢN LÝ KINH DOANH 2
I. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ 2
1. Quản lý là một chức năng vốn có của mọi tổ chức 2
2. Khái niệm quản lý 2
3. Các chức năng quản lý 4
II. QUẢN LÝ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP 5
1. Khái niệm 5
2. Thực chất của quản lý kinh doanh 6
3. Bản chất của quản lý kinh doanh 6
4. Quản lý kinh doanh mang tính khoa học, tính nghệ thuật và là một nghề 6
a. Quản lý kinh doanh mang tính khoa học 6
b. Quản lý kinh doanh mang tính nghệ thuật 7
c. Quản lý kinh doanh là một nghề 8
CHƯƠNG II. NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ 3 KHÁI NIỆM: QUẢN LÝ, QUẢN LÝ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP. 9
C. KẾT LUẬN 10
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-20-tieu_luan_ban_ve_khai_niem_quan_ly_quan_ly_kinh.FohuedZ3Ei.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-46501/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
A. Mở đầuTừ xa xưa khi các hoạt động trong xã hội còn tương đối đơn giản với quy mô chưa lớn, công tác quản lý được thực hiện trên cơ sở kinh nghiệm với sự linh hoạt nhạy bén của người đứng đầu tổ chức. Kinh nghiệm ngày càng phong phú và người ta rút ra được những từ đó những điều mang tính quy luật có thể vận dụng trong nhiều tình huống tương tự. Ngày nay hoạt động quản lý chủ yếu dựa trên cơ sở khoa học; qua tổng kết khái quát từ thực tiễn sinh động để trở thành khoa học quản lý.
Trong xã hội theo nghĩa rộng quản lý có thể là quản lý cả một đất nước. Nhưng ở đây em chỉ muốn đề cập đến việc quản lý kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện nhiều và phát triển một cách nhanh chóng. Nhưng cũng có không ít các doanh nghiệp cũng phải phá sản hay chuyển sang loại hình doanh nghiệp khác là do việc quản lý không phù hợp, lỏng lẻo, chưa coi đó là cái cột chính để đỡ nóc nhà mặc dù nền móng là nhân lực và vốn đã vững chắc. Đó chính là lý do để chúng ta thấy quản trị có vị trí như thế nào trong doanh nghiệp. Nó vừa có nghĩa bao gồm quản lý con người (hay nhiều người) giới vô sinh (máy móc thiết bị, đất đai, thông tin)... hay giới sinh vật (cây trồng, vật nuôi...) kinh doanh để phát triển sản xuất và doanh nghiệp. Vì lý do đó em đã chọn đề tài tiểu luận về: "Bàn về khái niệm quản lý - quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp những vấn đề có thể rút ra từ 3 khái niệm này".
B. Nội dung
Chương I: Khái niệm quản lý và quản lý kinh doanh
* Thuật ngữ quản trị và quản lý
Quản trị tiếng Anh là Management, vừa có nghĩa là quản lý vừa có nghĩa là quản trị, nhưng được dùng chủ yếu với nghĩa quản trị. Ngoài ra tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ khác nữa là Administration với nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính quyền. Tiếng Pháp cũng có 2 từ ngư tương đương: Gestion (tương đương với từ Management của tiếng Anh) là quản trị kinh doanh, còn Administration trong tiếng Anh cũng là quản lý các hành động hành chính, chính quyền.
Như vậy có thể tạm coi quản lý là thuật ngữ được dùng với các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng, còn giá trị là thuật ngữ được dùng đối với cấp cơ sở trong đó các tổ chức kinh doanh - các doanh nghiệp.
Quản trị và quản lý là logic giống nhau của vấn đề quản lý, nhưng điểm khác là nội dung và quy mô cụ thể của vấn đề quản lý đặt ra một bên là phạm vị cả nước, một bên là phạm vi từng cơ sở.
I. Khái niệm quản lý
1. Quản lý chức năng vốn có của mọi tổ chức.
Chức năng này phát sinh từ sự cần thiết phải phối hợp hành động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức, nhằm thực hiện mục tiêu chung được đặt ra cho tổ chức.
2. Khái niệm quản lý
Quản lý là một khái niệm có * hàm xác định song lâu nay thường có các cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được thể hiện bằng thuật ngữ khác nhau. Thực chất của quản lý là gì? (hay quản lý trước hết, chủ yếu là gì? ) cũng có những quan niệm không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên với sự phát triển của khoa học, quản lý đã cơ bản được làm sáng tỏ để có một cách hiểu thống nhất.
Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức.
Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất. Quản lý bao gồm các yếu tố:
+ Phải có một chủ thể quản lý là các tác nhân tạo ra tác động quản lý và một một đối tượng bị quản lý. Đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận và thực hiện tác động quản lý. Tác động quản lý có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
+ Phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn cứ chủ yếu để tạo ra các tác động. Chủ thể quản lý có thể là một người, nhiều người. Còn đối tượng bị quản lý có thể là người hay giới vô sinh (máy móc, thiết bị, đất đai, thông tin, hầm mỏ...) hay giới sinh vật (vật nuôi, cây trồng...)
Từ những khái niệm nêu trên ta thấy đối tượng chủ yếu và trực tiếp của quản lý là những con người trong tổ chức; thông qua đó tác động lên các yếu tố vật chất (vốn, vật tư, công nghệ) để tạo ra kết quả cuối cùng của toàn bộ hành động. Vì vật khi xét về thực chất, quản lý trước hết và chủ yếu là quản lý con người (trong bất cứ hành động nào).
Xác định như vậy để thấy con người là yếu tố quyết định trong mọi hành động, hoàn toàn không có nghĩa là nội dung các chức năng quản lý nhân sự (một bộ phận trọng yếu của quản lý). Điều này đã được nhiều nhà khoa học quản lý nhấn mạnh qua cách thể hiện như: "Quản lý là một quá trình làm cho những hành động được hoàn thành với hiệu quả cao, bằng và thông qua những người khác (S.P.Robbing) và "Các nhà quản lý có trách nhiệm duy trì các hành động làm cho các cá nhân có thể đóng góp tốt nhất và các mục tiêu của nhóm" (H. Koontz, C.O' donnell,...)
3. Các chức năng quản lý
Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều loại công việc khác nhau. Những loại công việc quản lý này được gọi là các chức năng quản lý. Như vậy các chức năng quản lý là những công việc quản lý khác nhau mà chủ thể quản lý (các nhà quản lý) phải thực hiện trong quá trình quản lý một tổ chức. Phân tích chức năng quản lý nhằm trả lời câu hỏi: các nhà quản lý phải thực hiện các công việc gì trong quá trình quản lý?
Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng trong quá trình quản lý. Vào những năm 1930, Gulick và urwich nêu lên 7 chức năng của quản lý trong từ viết tắt POSDCORB: P: Planning - lập kế hoạch, O: organnizing - tổ chức, S: Staffing - Quản trị nhân sự, D: Directing - chỉ huy, CO: Coordinating - phối hợp, R: Reviewing - kiểm tra, B: Budgeting - tài chính. Herni Fayol nêu 5 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. Trong những năm 60, Koontx và O'Donnell nêu 5 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, quản trị nhân sự, điều khiển và kiểm tra. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, giữa các giáo sư đại học Mỹ cũng không có sự thống nhất về cách thức phân chia các chức năng quản trị, James Stoner chia thành 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Cũng tương tự như thế, Stephen Ropbbin chia thành 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Andang và Stearns chia thành 4 chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức và quản trị nhân sự, điều khiển và kinh tế. Các chức năng như lập kế hoạch. Tổ chức, điều hành, kiểm tra và điều chỉnh là phổ biến đối với mọi nhà quản trị, dù đó là tổng giám đốc một Công ty lớn, hiệu trưởng một trường đại học, trưởng phòng chuyên môn trong một cơ quan, hay tổ trưởng một tổ gồm 5 - 7 công nhân.
Có thể nói, các chức năng quản lý trên đây chung nhất đối...