djss0o0_pro

New Member

Download miễn phí Bàn về từ nguyên của thuật ngữ “quản lý” và “quản lý hành chính”





Mỗi công đoạn quản lý vừa nhập vào hoạt động quản lý vừa chi phối
chính nó, nhấn mạnh yêu cầu “quản” người ta dùng “quản lý” nói mục
đích thì dùng “quản trị”. Mỗi nội dung quản lý có bao nhiêu nhiệm vụ là
tuỳ vào sự phân cấp, phân quyền và tầm tư duy của người quản lý nhưng
mỗi việc đều phải “hành - thi hành” với yêu cầu “chính - ngay, đúng,
trọn, trực - thẳng”. Đã “hành” thì phải “chính”, do đó, “trong khi” và
“sau khi” hoạt động, người ta dùng chuẩn để đánh giá quá trình thực
hiện công việc - khâu lập chuẩn phải phụ thuộc vào cái “lý” đã chọn ban
đầu. Tiếng Hán có hai chữ chính (chánh) không ra đời cùng lúc, chữ
trước có nghĩa là “ngay thẳng, khuôn phép, chính đáng, phải, ở giữa”, từ
đó tạo ra chữ chuẩn thứ hai với các nghĩa làm cho ngay thẳng, việc quan
việc nhà nước, cai trị. Khi Qúy Khương Tử hỏi Khổng Tử về vai trò của
“chính” khi “trị nước”, Khổng Tử đáp: “Chữ chính (cai trị ) là do noi
chữ chính (ngay thẳng) mà ra, bởi vậy, trị dân là làm cho dân trở nên
ngay thẳng" - đây được coi là một trong những cách ngôn hay nhất về
việc cai trị, điều cần làm cho ngay thẳng trước hết là cái tâm (chính tâm).



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Bàn về từ nguyên của thuật ngữ “quản lý” và
“quản lý hành chính”
“Quản” là hoạt động trông coi, điều khiển để duy trì trạng thái ổn định
và phát triển của đối tượng quản lý, “trị” ở đây là trạng thái ngược với
“loạn” – vì vậy, “trị” còn là mục đích, là mong muốn tốt lành của chủ
thể đối với đối tượng quản lý.
Muốn mài hòn ngọc thô thành vật trang sức theo ý mình, người thợ dựa
vào mạch, gân, vân - cái “lý” của ngọc, với hoạt động quản lý, muốn đối
tượng được “trị” thì chủ thể phải “quản” theo cái “lý” (mục tiêu) đã lựa
chọn từ các quy luật tự nhiên, xã hội cá nhân có liên quan. “Lý" trong
quản lý không phải là một từ mang một nghĩa bất biến, đó là một phạm
trù triết học chỉ quy luật tự nhiên của bản thân sự vật, quy luật của sự
vật, quan niệm, nguyên tắc, quy phạm của luân lý, cái lý ấy tồn tại và
phát triển cùng sự vật. Dù chủ thể, đối tượng hay môi trường quản lý...
đều có những quy luật tự nhiên của nó - nắm bắt và sử dụng chúng là
trách nhiệm, là cái tài và cái tâm của nhà quản lý.
“Hành” trong “hành chính" là “làm” công đoạn hai của quy trình nhận
thức. Con đường nhận thức vốn từ trực quan đến tư duy và từ tư duy trở
về thực tiễn, trở về thực tiễn không chỉ để cải tạo đối tượng theo mục
đích của chủ thể mà còn để kiểm chứng giả thuyết - thuật tham nghiệm
của phái Pháp gia.
Nhận thức
Trực
quan
Tư duy Thực tiễn
Kinh
nghiệm
Tri Hành Kiếm
Tổng kết kinh nghiệm để thực hiện chu kỳ quản lý sau có hiệu quả cao
hơn - nhà “Kinh nghiệm thực tiễn" của chu kỳ trước.
Quản lý
Nhận tin Lập kế Thực hiện Kiểm tra
Hoạch định Thực hiện Chỉ đạo Tổng kết
Là sinh vật có ý thức, con người biết “suy” khi sắp làm, biết “xét" khi đã
làm nên, chỉ “hành” khi đã “tri”. “Tri” là “tri lý” (xong nhân bất học bất
tài lý), là công đoạn đầu tiên của chu kỳ nhận thức và cũng là công đoạn
đau tiên của chu kỳ “quản lý” - nhằm nắm cái lý, quy luật nắm co sở lý
luôm co sỏ pháp lý. Mức độ hiểu hay tầm hiểu biếm là nghĩa của từ
“lĩnh” (lãnh) - hiểu được lời bàn luận là “lãnh giáo”, “lãnh” vốn là “cái
cổ áo” ngày trước, muốn cho áo được ngay thẳng (chính) phải xóc áo,
muốn xóc phải nắm giữ (trị) cái cổ áo (lãnh) vì vậy người nắm giữ một
nhóm người thì gọi là “lãnh tụ” , từ đó, lãnh dùng để chỉ nhiệm vụ điều
hành, đề xuất - nay gọi là lãnh đạo - là việc đề ra chủ trương, đường lối
(đạo) và tổ chức, động viên thực hiện. Hoạt động quản lý (lãnh đạo) thể
hiện qua các công đoạn mang tính chức năng (hoạch định thực hiện kiểu
ta), thiếu một công đoạn nào thì chu kì quản lý sẽ bất thành - vì vậy, nói
không kiểm tra cũng như không lãnh đạo nếu dùng hoạch định hay thực
hiểm thay cho kiểm tra thì nghĩa câu này vãn đúng. Việc “quản bản thân
- tu thân, quản một gia đình - tề gia, quản một đất nước - trị quốc” đều
thực hiện ba công đoạn “trị - hành - kiểm”. Vì vậy, “tu”, “tề”, “trị” thực
chất là những chuỗi hoạt động quản lý - đối tượng quản lý có khác nhau
nhưng các công đoạn quản lý là không đổi.
Việc quản lý bản thân, gia đình, đất nước có quan hệ kế thừa và tương
tác một cách đặc biệt. Muốn thành công trong việc trị quốc thì trước hết
phải biết tề gia, muốn tề gia thì phải tu thâm, muốn tu thân phải chính
tâm, muốn chính tâm phải thành ý, muốn thành ý thì phải có thực học
(cách vật trí tri), một quá trình khổ luyện.
Mỗi công đoạn quản lý vừa nhập vào hoạt động quản lý vừa chi phối
chính nó, nhấn mạnh yêu cầu “quản” người ta dùng “quản lý” nói mục
đích thì dùng “quản trị”. Mỗi nội dung quản lý có bao nhiêu nhiệm vụ là
tuỳ vào sự phân cấp, phân quyền và tầm tư duy của người quản lý nhưng
mỗi việc đều phải “hành - thi hành” với yêu cầu “chính - ngay, đúng,
trọn, trực - thẳng”. Đã “hành” thì phải “chính”, do đó, “trong khi” và
“sau khi” hoạt động, người ta dùng chuẩn để đánh giá quá trình thực
hiện công việc - khâu lập chuẩn phải phụ thuộc vào cái “lý” đã chọn ban
đầu. Tiếng Hán có hai chữ chính (chánh) không ra đời cùng lúc, chữ
trước có nghĩa là “ngay thẳng, khuôn phép, chính đáng, phải, ở giữa”, từ
đó tạo ra chữ chuẩn thứ hai với các nghĩa làm cho ngay thẳng, việc quan
việc nhà nước, cai trị. Khi Qúy Khương Tử hỏi Khổng Tử về vai trò của
“chính” khi “trị nước”, Khổng Tử đáp: “Chữ chính (cai trị ) là do noi
chữ chính (ngay thẳng) mà ra, bởi vậy, trị dân là làm cho dân trở nên
ngay thẳng" - đây được coi là một trong những cách ngôn hay nhất về
việc cai trị, điều cần làm cho ngay thẳng trước hết là cái tâm (chính
tâm). Trong hệ quản lý, hơn ai hết, chủ thể phải đạt chính tâm, nếu
không thì khó đạt đến các nhân tố khác (chính trí, chính thuyết, chính
trị...), sinh ra bất an (loạn) cho bản thân và cho cả hệ thống - thượng bất
chính hạ tắc loạn (thượng - cấp trên chủ thể quản lý).
Từ nguyên của nhóm thuật ngữ liên quan đến lý, trí, quyền... không là
vấn đề riêng quốc gia nào. Người Hy Lạp coi “logos" (lý) là quy luật
khách quan - nguyên nhân tồn tại và phát triển của vũ trụ theo trật tự vĩ
mô bền vững, xã hội loài người muốn đạt trạng thái phát triển bên vững
(trị) cần “quản” theo trật tự đúng đắn (chính) của logos. Phạm trù logos
tạo ra nhiều từ - log - ical (hợp lý), psychological (tâm lý), logique (hợp
lý, luận lý học). Để tư duy, nhà quản trị không chỉ cần thông tin đúng mà
còn phải biết sử dụng đúng quy tắc tư duy để xử lý nguồn thông tin đó.
“Right” trong tiếng Anh cũng phong phú ý nghĩa như hai từ “chính”
trong tiếng Việt ( chính - đúng và chính - cai trị) - các nghĩa đó chính
đáng, điều đúng đắn, quyền lực, thẳng, ngay, lý cần có, lấy lại cho
ngay, lấy lại cho thẳng, chỉnh đốn, uốn nắn, không còn ngả nghiêng...
Do vậy, không thể không chú ý đến những ngữ nghĩa liên quan:
R I G H T
Reason Idea ground High truth
" Reason: lý lẽ, lẽ phải, lý do, động từ (to reason: lý luận). R ở từ “rig”
còn có nghĩa “sắp xếp cho có trật tự” (quản trị).
Idea: mẫu mực lý tưởng (theo Platon), ý niệm của lý trí (Căng), đối
tượng trực tiếp của nhận thức (Đ. Cáttơ).
Ground: cơ sở (to prepare the ground for… chuẩn bị cơ sở cho...), nền
tảng, lý lẽ, hạ cánh, sự tiếp đất - gắn thực tiễn, căn cứ vào (ground on),
đặc biệt, số nhiều (grounds) không là nhiều lý lẽ mà lại là cặn bã, nghĩa
động từ (to ground) là mài giũa.
High: tối cao, cao qúy, mạnh mẽ, dũng cảm
Truth: sự thật, chân lý, sự đúng đắn.
“G” của “right” còn ở “growth” - tăng trưởng, phát triển, “great - vĩ đại,
cao thượng” - mục đích, yêu cầu của hoạt động quản lý (làm cho dân trở
nên ngay thẳng). Với từ “law” (luật, phép tắc, quy luật, định luật điều lệ)
cũng vậy:
L A W
logo action wide
Với “action - hành động, bộ máy”, “wide - rộng, lớn, uyên bác, v
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
N Bàn về kế toỏn doanh thu, thu nhập từ cung cấp dịch vụ Quảng cỏo trực tuyến theo Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành Luận văn Kinh tế 0
D Từ bài Bàn luận về phép học của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, hãy nêu suy nghĩ về mối quan hệ giữa học Văn học 0
T vấn đề về đời sống của nữ thanh niên xung phong chống Mỹ (Qua nghiên cứu khảo sát tại địa bàn quận Đống Đa và huyện Từ Liêm - hà Nội) Văn hóa, Xã hội 0
C Vài nét về đời sống người phụ nữ già cô đơn ở nông thôn, nhìn từ góc độ xã hội (Qua khảo sát ở địa bàn thuộc tỉnh Hà Tây) Văn hóa, Xã hội 0
D Nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học tại trường trên địa bàn huyện Từ Liêm, TP Hà Nội Luận văn Sư phạm 0
D Từ bài thơ "Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến, anh (chị) hãy viết bài văn bàn về danh và thực trong cu Văn học 0
H vấn đề về quản lý vốn đầu tư xây dựng KCHTKT từ NSNN trên địa bàn TP Hà Nội. Thực trạng và giải pháp Tài liệu chưa phân loại 0
K Bàn về khái niệm quản lý - Quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp vấn đề có thể rút ra từ 3 khái niệm này Tài liệu chưa phân loại 0
R Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên Ngoại ngữ 0
D Quản lý nhà nước về bảo trợ xã hội trên địa bàn huyện đại lộc, tỉnh quảng nam Văn hóa, Xã hội 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top