Clustfeinad

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Báo cáo Nghiên cứu, đối sánh tướng trầm tích Oligocen bể Sông Hồng và bể Cửu Long và từ đó đánh giá triển vọng dầu khí
Mở đầu
Bể Sông Hồng và bể Cửu Long là một trong số những bể trầm tích Kainozoi thuộc thềm lục địa Việt Nam. Trong đó bể Sông Hồng là bể trầm tích lớn nhất ở Việt Nam cả về diện tích và bề dày trầm tích, đa dạng về loại hình khoáng sản (dầu khí, condensat) và cho đến nay được đánh giá là bể có tiềm năng chủ yếu về khí. Còn bể Cửu Long là bể trầm tích có hình bầu dục chạy theo hướng Đông Bắc-Tây Nam dọc bờ biển Vũng Tàu, Ninh Thuận. Về cấu trúc địa chất bể Cửu Long được xem là bể trầm tích nửa khép kín liên thông với biển đông về phía Đông Bắc và phía Đông trong lịch sử phát triển từ Oligocen –Đệ tứ.
Tiềm năng dầu khí bể Sông Hồng và dầu khí bể Cửu Long đã đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước. Tuy đã được đầu tư nghiên cứu nhiều về địa vật lý và địa chất dầu nói chung song hai bể này vẫn chưa được tập trung nghiên cứu chuyên sâu về tướng đá - cổ địa lý nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ giữa chúng với triển vọng dầu khí. Đề tài “Nghiên cứu, đối sánh tướng trầm tích Oligocen bể Sông Hồng và bể Cửu Long và từ đó đánh giá triển vọng dầu khí” nhằm đánh giá triển vọng dầu khí hai bể trên cơ sở phân tích tướng trầm tích và sự cộng sinh tướng theo không gian và thời gian.
Báo cáo gồm những nội dung cơ bản sau:
I. Đặc điểm chung của bể Sông Hồng và bể Cửu Long
II. Địa tầng Oligocen bể Sông Hồng và bể Cửu Long
III. Đối sánh triển vọng dầu khí trên cơ sở phân tích tướng
Trong thời gian thực hiện đề tài này chúng em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của giáo sư tiến sĩ Trần Nghi và tập thể các thầy cô trong bộ môn Trầm tích và địa chất biển. Nhân dịp này cho chúng em bày tỏ lời biết ơn sâu sắc.
Để hoàn thiện bài báo cáo này chúng em đã rất cố gắng để chuyển tài đầy đủ nội dung và kết quả thực hiện đề tài. Nhưng bài báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong các thầy cô và các bạn chân thành đóng góp ý kiến để tác giả rút kinh nghiệm trong những lần báo cáo sau.
Xin chân thành cảm ơn!

Chương 1
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BỂ SÔNG HỒNG
VÀ BỂ CỬU LONG
1.1. BỂ SÔNG HỒNG
Bể Sông Hồng nằm trong vùng 103˚30’ - 110˚30’ kinh tuyền Đông và 14˚30’ - 21˚00’ vĩ độ Bắc là 1 trong những bể lớn nhất ở Việt Nam: với diện tích khoảng 220,000 Km2 gồm 1 phần diện tích nhỏ trên đất liền (MVHN) và phần lớn diện tích nằm ngoài khơi vịnh Bắc Bộ và vùng biển Miền Trung Việt Nam. Trầm tích lấp đầy có tuổi đệ tam -> hiện đại với độ dày thay đổi từ vài trăm đến 0 Km (14Km).


Dọc theo phía Tây ( thuộc đất liền VN và Đông thuộc đất liền đảo Hải Nam – Trung Quốc ) của bồn trũng móng lộ thiên tuổi Mesozoi – Paleozoi về phía Đ – B là bồn trũng Lôi Châu – Trung Quốc: phía Đông Nam Trung Quốc là bồn trũng Đông Nam Hải Nam và bồn trũng Hoàng Sa , còn về phía cực Nam là bồn Phú Khánh ( Hình 1 ). Bể Sông Hồng rất rộng lớn và phức tạp về lịch sử phát triển địa chất: từ thời kì Paleogen cho đến nay. Tách giãn trong thời kì Eocen – Oligocen : căng giãn và nén ép ,nghịch đảo kiến tạo, nâng lên, lún chịu nhiệt, bào mòn cắt xén kèm theo các chu kì nâng hạ mực nước biển. Kết quả là cấu trúc và môi trường trầm tích biến đổi rất mạnh theo không gian và thời gian, biến đổi từ B – N, từ đất liền ra biển và từ móng trước đệ tam đến trầm tích hiện tại. Chính vì sự rộng lớn và phức tạp về kiến tạo cũng như địa tầng có thể chia ra làm ba vùng địa chất như sau :
1. Vùng Tây Bắc : bao gồm cả miền võng Hà Nội, kéo dài từ đất liền ra biển Tây Bắc vịnh Bắc Bộ tới các lô 103 – 107 . Vùng này có sự nâng lên, nghịch đảo kiến tạo, bào mòn cắt xén rất mạnh trong Miocen và các khối xoay xéo trong trầm tích Oligocen.
2. Vùng trung tâm ( trung tâm vịnh Bắc Bộ ) : kéo dài từ lô 107 – 108 đến lô 115, với độ sâu nước biển 20 – 90m. Về cấu trúc vùng này phát triển đa dạng và phức tạp: đặc điểm chính của vùng này là trầm tích Đệ Tam nghiêng thoải dần và dày lên về trung tâm bồn trũng.
3. Vùng phía Nam: Từ phía Nam của lô 115 – 121 tiếp giáp bồn trầm tích Phú Khánh, với mực nước dao động từ 30 đến 1100m. Vùng này có cấu trúc khác biệt với hai vùng đã nói ở trên do có móng nâng cao vào cuối thời kì Oligocen (Địa luỹ Trí Tôn ). Địa luỹ Trí Tôn là nơi thuận lợi cho carbonat thềm và khối xây ám tiêu san hô phát triển. Cạnh phía Tây địa luỹ là địa hào Quảng Ngãi với nhiều fan cát quạt ngầm Oligocen – Miocen và phía Đông là địa hào Lý Sơn với các khối xoay đứt gãy trong Oligocen.
1.2. BỂ CỬU LONG
Nằm chủ yếu trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam và một phần đất liền thuộc lưu vực sông Cửu Long. Bể có hình bầu dục, rộng ra về phía biển và nằm dọc theo bờ biển Vũng Tàu, Bình Thuận. Bể Cửu Long được xem là bể trầm tích khép kín điển hình ở Việt Nam. Tuy nhiên nếu tính theo đường đẳng dày trầm tích theo 1000m thì bể có xu hướng mở về phía Đông Bắc và vế phía biển Đông hiện tại. Bể Cửu Long tiếp giáp với đất liền về phía Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam Côn Sơn bởi đới nâng Côn Sơn, phía Tây Nam là đới nâng Khorat – Natuna và phía Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hoà ngăn cách với bể Phú Khánh. Bể có diện tích khoảng 36.000Km2 gồm các lô 9,13,16,17 và một phần của các lô 1,2,25 và 31. Bể được bồi lấp chủ yếu bởi trầm tích lục nguyên Đệ Tam, chiều dày lớn nhất của chúng tại trung tâm bể có thể đạt tới 7 -8 Km.
Về cấu trúc địa chất, các đơn vị cấu trúc của bể Cửu Long có thể được phân chia bao gồm:
- Trũng phân dị Bạc Liêu: là trũng nhỏ nằm ở phần cuối Tây Nam của bể Cửu Long có diện tích khoảng 3600 km2 với một nửa thuộc lô 31 và phần còn lại thuộc nước nông và đất liền. Trũng có chiều dày Đệ Tam không lớn, khoảng 3 km và bị chia cắt bởi các đứt gãy thuận có phương TB-ĐN.
- Trũng phân dị Cà Cối: nằm chủ yếu ở khu vực cửa sông Hậu có diện tích rất nhỏ và chiều dày trầm tích không lớn, khoảng 2000m. Trũng bị phân cắt bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-TN.
- Đới nâng Cửu Long: nằm về phía Đông của đới phân dị Bạc Liêu và Cà Cối, phân tách hai trũng này với trũng chính của bể. Đới nâng có chiều dày trầm tích không đáng kể, chủ yếu là trầm tích hệ tầng Đồng Nai và Biển Đông.
- Đới nâng Phú Quý: được xem như phần kéo dài của đới nâng Côn Sơn về phía Đông Bắc, thuộc lô 01 và 02. Đây là đới nâng cổ, có vai trò khép kín và phân tách bể Cửu Long với phần phía Bắc của bể Nam Côn Sơn. Chiều dày trầm tích thuộc khu vực đới nâng này dao động từ 1,5 đến 2 km. Cấu trúc của đới bị ảnh hưởng khá mạnh bởi hoạt động núi lửa, kể cả núi lửa trẻ.
- Trũng chính bể Cửu Long: đây là phần lún chìm chính của bể, chiếm tới ¾ diện tích bể, gồm các lô 15, 16 và một phần các lô 01, 02, 09, 17. Toàn bộ triển vọng dầu khí của bể đều tập trung ở trũng này và phân chia thành các đơn vị cấu trúc nhỏ hơn bao gồm: Sườn nghiêng Tây Bắc, sườn nghiêng Đông Nam, trũng Đông Bắc, trũng Tây Bạch Hổ, trũng Đông Bạch Hổ, đới nâng trung tâm, đới nâng phía Tây Bắc, đới nâng phía Đông, đới phân dị Đông Bắc và đới phân dị Tây Nam.

b, Bể cửu long
Đá chứa dầu khí trong bể Cửu Long bao gồm các đá: granitoid nứt nẻ hang hốc của móng kết tinh, phun trào dạng vỉa hoăc đai mạch và đá cát kết có cấu trúc lỗ hổng giữa hạt đôi khi có nứt nẻ. Trong đó, đối với hệ tầng Oligocen đá chứa chủ yếu là cát kết với thành phần fenspat rất đa dạng: octocla, plagiocla axit, plagiocla trung bình, thạch anh đơn tinh và rất phổ biến các mảnh đá phun trào.
Cát kết tầng Oligocen dưới là acko-litic, đôi chỗ nằm xen với các tập đá núi lửa dày, ứng với hệ tầng Trà Cú có nguồn gốc nón quạt bồi tích sông ngòi nằm trên đá móng kết tinh ở phần cao của móng và cả sạn sét tiền châu thổ (prodelta) và đầm hồ ở phần sâu của bể.
Cát hạt thô chứa cuội, sạn đến trung bình có màu xám, xám nâu với độ chọn lọc kém với ximăng gắn kết là kaolinit, clorit và carbonat kiểu lấp đầy và tiếp xúc. Độ rỗng cát kết Oligocen dưới có thể đạt tới 18%, trung bình 12-16%, độ thấm 1-250 mD. Ở phần giữa và phần trên mặt cắt Oligocen dưới cát kết có chất lượng tốt hơn. Theo chiều sâu tính thấm, chứa của đá có tính chất giảm dưới 3800m do bị thạch anh và clorit hoá mạnh nên độ rỗng 14-15%, trừ một số trường hợp mỏ Đông Rồng và Sư Tử Trắng độ rỗng vẵn được bảo tồn tốt 15-16%, độ rỗng giảm theo chiều sâu là do quá trình tạo đá (diagenes) ép lún mạnh.
Cát kết Oligocen trên hạt mịn xen lớp mỏng với sét, bột, bột kết, đôi chỗ với các tập đá núi lửa, phát hiện rộng trên diện tích của bể. Cát kết chủ yếu là arkos, arkos – litic, vật liệu trầm tích nguồn cung cấp liên quan tới các khối magma axit ở gần, tích tụ trong môi trường đầm hồ cửa sông, đầm lầy, vũng vịnh thuỷ trièu trong điều kiện khử với ảnh hưởng của biển tăng dần về phía Đông Bắc. Khoáng vật sét thường gặp như trong Oligocen dưới, ngoại trừ zeolit, hàm lượng cacbonat trong xi măng cao. Độ rỗng 12-21%, trung bình 14%, độ thấm 2- 26mD.
C. Đánh giá triển vọng dầu khí
Đối với tầng chứa Oligocen của bể Sông Hồng do nằm ở độ sâu lớn, nhiệt độ cao dẫn đến mức độ biến đổi thứ sinh mạnh làm giảm độ rỗng. Ngoài ra quá trình calcite và siderite hoá cũng làm giảm độ rỗng. Chế độ lắng đọng trầm tích phức tạp nên trong cát kết thành phần bột và sét cao, cát không sạch có độ thấm thấp (bảng 2). Tất cả những yếu tố trên làm cho chất lượng của tầng chứa thuộc loại kém.Còn đối với tầng sinh của bể trong giai đoạn này thì thành phần vât chất hữu cơ thì có sự biến đổi giữa các khu vực khác nhau:
- Phân tích tầng sinh tại T-B bể Sông Hồng nói chung và võng miền Hà Nội nói riêng cho thấy trầm tích Oligocen thường chứa kerogen loại III và ít hơn là loại II ,thường bị chôn vùi. Nhưng đá mẹ tại đây lại rất giàu vật chất hữu cơ với: TOC khoảng 6,9 – 11% Wt.
- Tại rìa ĐBVMHN khi khảo sát vùng Đồng Hô và phần sâu của đảo Bạch Long Vĩ đã phát hiện các đá mẹ là sét và sét than trong các tập Oligocen ,có cả kểogn loại I và II ,có khả năng sinh cả dầu lẫn khí, rất giàu VCHC: TOC khoảng 7 – 18% Wt.
Nhìn chung do trầm tích bể Sông Hồng bị chôn vùi sâu , địa nhiệt cao khoảng 3,7 – 4,5˚C/100m nên hiện tại đá mẹ Oligocen cùng với Eocen là các tầng đá mẹ chính. Với thành phần vật chất hữu cơ: TOC dao động 0.56% nhiều nơi là 2,67 % và kerogen chủ yếu thuộc loại III (sinh vật thượng đẳng) (bảng 2). Vì vậy tầng sinh của bể sông hồng có khả năng tạo khí tốt.
Đối với bể Cửu Long trầm tích Oligocen nằm ở độ sâu thấp hơn nhiều với thành phần tầng chứa chủ yếu là tướng cát nón quạt cửa sông và tướng đê cát ven bờ. Với độ rỗng tầng cát kết Oligocen của bể này là : độ rỗng 12-21% trung bình 14 % độ thấm 2- 26mD. Cát kết chủ yếu là ackos, ackos-litic, vật liệu trầm tích liên quan với nguồn gốc các khối magma axit gần đó, tích tụ trong môi trường đầm hồ cửa sông, đầm lầy và môi trường vũng vịnh thủy triều trong điều kiện khử. Làm tăng độ rỗng và khả năng thấm so với bể Sông Hồng dẫn đến tính chất chứa đạt ở mức trung bình đến kém. Còn đối với tầng sinh phân bố chủ yếu là các tập sét. Đây là tầng rất phong phú vật chất hữu cơ thuộc loại rất tốt như rong tảo: TOC dao động từ 3,5% đến 6,1%, đôi nơi tới 11-12% và kerogen thuộc loại II (rong tảo) . Về chất lượng dầu khí đây là tầng tạo dầu khí tốt.

Bảng 2: Đánh giá triển vọng dầu khí
Loại đá
Tham số Bể Sông Hồng Bể Cửu Long
Giá trị Chất lượng Giá trị Chất lượng
Đá chứa Li (%) 5 – 25%



Kém 1 - 18


Trung bình - kém

K (mD) 1 – 26 5 – 50
Q (%) 35 – 80 25 – 78
Me (%) 5 (5 - 10) 2.2 – 8.9


Tướng trầm tích - Tướng cát.
- Tướng cát cồn chắn cửa sông.
- Tướng cát bãi triều. - Tướng cát nón quạt cửa sông.
- Tướng đê cát ven bờ.
Đá sinh Vật chất hữu cơ Kerogen Loại III (sinh vật thượng đẳng)
Tạo khí
tốt
Loại I – II (rong tảo)
Tạo dầu
tốt
TOC 0.56%
2.67% 3.5 – 6.1%
11 – 12%

Tướng trầm tích - Tướng sét giàu vật chất hữu cơ cửa sông.

- Tướng sét đầm lầy ven biển. - Tướng sét giàu vật chất hữu cơ hạ đẳng vũng vịnh.
- Tướng sét giàu vật chất hữu cơ đầm hồ.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trầm tích tướng Sông Hồng và bồn Cửu Long đã phát hiện:
- Bồn Sông Hồng sụt lún sâu hơn bồn Cửu Long, được lấp đầy trầm tích với thành phần thạch học : Chủ yếu là cát kết acko – litic, grauvac – litic, bột kết đa khoáng có cấu tạo khối, chứa hóa thạch động thực vật đặc trưng biển nông và châu thổ. Cát kết đa khoáng có độ chọn lọc mài tròn từ trung bình (cát cồn chắn cửa sông) đến kém (aluvi). Vật liệu trầm tích do Sông Hồng cung cấp có nguồn gốc biến chất phức hệ Sông Hồng. Vì vậy các trầm tích Oligocen của bể Sông Hồng được cấu thành bởi các tướng châu thổ đầm lầy ven biển và biển nông.
- Bồn Cửu Long sụt lún yếu hơn nên trầm tích Oligocen được phân biệt rõ nét về thành phần thạch học và tướng trầm tích : giai đoạn Oligocen trầm tích chủ yếu là tướng acko nón quạt cửa sông xen sét bitum vũng vịnh . Thành phần thạch học chủ yếu là cát kết acko, Q – acko, acko – litic, có nguồn gốc từ móng granitoid (với tư cách là vùng xâm thực cung cấp vật liệu tại chỗ). Độ chọn lọc từ trung bình đến kém.
Trong trầm tích Oligocen của bể Sông Hồng và bể Cửu Long có sự cộng sinh tướng theo không gian từ bờ ra trung tâm bồn như sau:
+Bể Sông Hồng: Mặt cắt trầm tích Oligcen là tướng cuội sạn aluvi, proluvi tiếp đến là tướng sét bột tiền châu thổ, sườn châu thổ và kết thúc là tướng sét-bột biển nông .
+Bể Cửu Long: Theo mặt cắt, phần thấp nhất là tướng sạn cát acko, cát thạch anh – acko aluvi tiếp đến là tướng cát bột thạch anh acko, acko – litic, thạch anh – grauvac biển ven bờ của vũng vịnh, kết thúc là tướng sét bột biển nông và sét vôi vũng vịnh.
Nghiên cứu tướng trầm tích của Oligocen bể Sông Hồng và bể Cửu Long cho phép phân biệt được điều kiện thành tạo của tầng sinh và tầng chứa. Tầng sinh của bể Sông Hồng chủ yếu là sinh khí liên quan đến tướng sét than đầm lầy ven biển cổ thuộc nhóm tướng châu thổ. Trong khi đó tầng sinh tốt nhất của bể Cửu Long chủ yếu là sinh dầu liên quan đến tướng sét và sét vôi vũng vịnh giàu vật chát hữu cơ hạ đẳng ( Kerogen loại II).

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

azyz2401

New Member
ào bạn
Cho phép mình link tải tài liệu này được không??
Mình xin cảm ơn
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Báo cáo nghiên cứu khoa học Lý thuyết" khoa học - xã hội Tây Nghệ An Văn hóa, Xã hội 0
P Bảng Báo cáo kết quả nghiên cứu Marketing về nhu cầu và mong muốn của Khách du lịch khi tham gia 1 tour du lich mạo hiểm ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Nghiên cứu về sai sót trong báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
M Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ của khách sạn trường làm Báo cáo tốt nghiệp Luận văn Kinh tế 0
J Mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ và mô hình cơ sở dữ liệu hướng đối tượng (Báo cáo tổng hợp Đề tài nghiên cứu khoa học đo Khoa quản lý cấp DI 1QG Hà nội) Luận văn Sư phạm 0
T Nhận dạng tiếng Việt trên các thiết bị cầm tay (Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia do Trường Đại học Công nghệ quản lý) Luận văn Sư phạm 0
B Nhận dạng các form tài liệu (Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQGHN) Luận văn Sư phạm 0
B Ứng dụng thực tại trộn trong đào tạo điện tử (Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia do Khoa Công nghệ quản lý) Luận văn Sư phạm 0
L Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ văn bản thông cáo báo chí Văn hóa, Xã hội 0
K Xây dựng đội ngũ báo cáo viên cấp huyện đáp ứng yêu cầu mới (qua nghiên cứu thực tiễn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) Văn hóa, Xã hội 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top