goodbye_mylove0113
New Member
Download Báo cáo Phân tích ngành hàng hải
Ngành kinh doanh dịch vụ hàng hải bao gồm 2 mảng: khai
thác dịch vụ cảng và dịch vụ vận tải. Ở Việt Nam, ngành này
đang hỗ trợ khoảng 80% việc lưu chuyển hàng hóa thương
mại.
Nền kinh tế đất nước hội nhập là cơ hội phát triển lớn ngành
hàng hải. Sản lượng xuất nhập khẩu cũng như sản lượng
hàng hải đều tăng trưởng trên dưới 20% trong 10 năm qua.
Chính phủ đã đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng cảng biển,
đồng thời khuyến khích đầu tư vận tải biển. Trong hơn 10
năm phát triển, năng lực cảng cũng như năng lực đội tàu đã
tăng gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của cơ sở
hạ tầng ngành hiện đang chậm hơn một bước so với phát
triển kinh tế và vận tải biển vẫn đang nhường lại sân cho các
doanh nghiệp nước ngoài.
Giá cước vận tải biến động mạnh trong năm 2008, cùng
thương mại toàn cầu suy giảm do khủng hoảng khiến hoạt
động kinh doanh vận tải gặp nhiều khó khăn trong năm 2009.
Sản lượng qua cảng cũng giảm, ngoại trừ các cảng
container.
Sau năm 2010, nền kinh tế Việt Nam vẫn được dự báo tăng
trưởng và đạt mức 7% trở lại trong những năm sau 2010.
Nhu cầu cho ngành được kỳ vọng là cũng sẽ gia tăng mạnh
mẽ trở lại. Chính Phủ kêu gọi, khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia đầu tư phát triển cảng biển và nâng cao
năng lực đội tàu quốc gia.
Trên sàn GDCK, kết quả kinh doanh của các DN hàng hải sụt
giảm nghiêm trọng đặt trong triển vọng không mấy sáng sủa
của ngành trong ngắn hạn khiến cổ phiếu của ngành trở nên
kém hấp dẫn đối với nhà đầu tư, nhất là cổ phiếu lĩnh vực
vận tải. Tuy nhiên, các DN cảng vẫn cho thấy còn nhiều cơ
hội.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Nội dung
Tổng quan ngành
Đặc điểm của ngành
1. Khai thác cảng
Giới thiệu hệ thống cảng Việt Nam
Nhu cầu hàng hóa qua cảng
Hoạt động của các doanh nghiệp cảng
Phân tích SWOT
2. Vận tải biển
Giới thiệu đội tàu và tuyến vận tải
Hoạt động vận tải biển
Phân tích SWOT
Hỗ trợ phát triển từ CP
Các doanh nghiệp hàng hải niêm yết
Ngành kinh doanh dịch vụ hàng hải bao gồm 2 mảng: khai
thác dịch vụ cảng và dịch vụ vận tải. Ở Việt Nam, ngành này
đang hỗ trợ khoảng 80% việc lưu chuyển hàng hóa thương
mại.
Nền kinh tế đất nước hội nhập là cơ hội phát triển lớn ngành
hàng hải. Sản lượng xuất nhập khẩu cũng như sản lượng
hàng hải đều tăng trưởng trên dưới 20% trong 10 năm qua.
Chính phủ đã đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng cảng biển,
đồng thời khuyến khích đầu tư vận tải biển. Trong hơn 10
năm phát triển, năng lực cảng cũng như năng lực đội tàu đã
tăng gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của cơ sở
hạ tầng ngành hiện đang chậm hơn một bước so với phát
triển kinh tế và vận tải biển vẫn đang nhường lại sân cho các
doanh nghiệp nước ngoài.
Giá cước vận tải biến động mạnh trong năm 2008, cùng
thương mại toàn cầu suy giảm do khủng hoảng khiến hoạt
động kinh doanh vận tải gặp nhiều khó khăn trong năm 2009.
Sản lượng qua cảng cũng giảm, ngoại trừ các cảng
container.
Sau năm 2010, nền kinh tế Việt Nam vẫn được dự báo tăng
trưởng và đạt mức 7% trở lại trong những năm sau 2010.
Nhu cầu cho ngành được kỳ vọng là cũng sẽ gia tăng mạnh
mẽ trở lại. Chính Phủ kêu gọi, khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia đầu tư phát triển cảng biển và nâng cao
năng lực đội tàu quốc gia.
Trên sàn GDCK, kết quả kinh doanh của các DN hàng hải sụt
giảm nghiêm trọng đặt trong triển vọng không mấy sáng sủa
của ngành trong ngắn hạn khiến cổ phiếu của ngành trở nên
kém hấp dẫn đối với nhà đầu tư, nhất là cổ phiếu lĩnh vực
vận tải. Tuy nhiên, các DN cảng vẫn cho thấy còn nhiều cơ
hội.
NGÀNH HÀNG HẢI
Tháng 8/ 2009
Tóm tắt
02 Báo cáo phân tích ngành
Ngành hàng hải của nước ta bắt đầu phát triển từ những
năm 1990s, khi kinh tế và thương mại bắt đầu mở cửa.
Tháng 6 năm 1990, Bộ Luật Hàng Hải Việt Nam ra đời, tạo
nền tảng pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành. Cũng trong thời gian này, Cục Hàng Hải Việt Nam -
cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành và Tổng công ty
Hàng Hải Việt Nam, Vinalines – Doanh nghiệp thay mặt nhà
nước kinh doanh vận tải biển, quản lý kinh doanh cảng biển
và dịch vụ hàng hải, được thành lập nhằm định hướng hoạt
động ngành phù hợp với chiến lược phát triển tổng thể.
Về xây dựng, quản lý và khai thác cảng biển, cả nước đã
hình thành một hệ thống gồm 8 nhóm cảng theo một quy
hoạch đã được Thủ tướng phê duyệt năm 1999. Hiện có
tổng số 49 cảng trong cả nước. Các cảng chính có thể đón
tàu quốc tế tập trung tại 4 thành phố lớn là Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng và Vũng Tàu và hầu hết được quản lý bởi
Vinalines. Vinalines cũng nắm giữ khoảng 60% tổng trọng
tải đội tàu. Hiện, đội tàu quốc gia hiện có tổng trọng tải gần
3 triệu DWT đăng k y’.
Tuy nhận được hỗ trợ và khuyến khích đầu tư mạnh mẽ về
cơ sở hạ tầng từ Chính Phủ, cả hệ thống cảng và đội tàu
của chúng ta hiện đều cho thấy sự tụt hậu so với sự tốc độ
tăng trưởng của ngành thương mại. Tình trạng ùn tắc giao
thông tại cảng trung tâm thường xuyên xảy ra trong vài năm
trở lại đây. Các công ty vận tải trong nước cũng chỉ đáp ứng
được khoảng 20% sản lượng hàng hóa lưu chuyển mỗi
năm, và nhường phần còn lại cho các hãng nước ngoài.
Hơn nữa, trong khi vận chuyển hàng container đang trở
thành xu thế chung của thế giới thì hiện cảng và đội tàu của
nước ta vẫn chủ yếu phục vụ hàng dời. Điều này làm giảm
hiệu quả trong lưu chuyển hàng hóa, đồng thời giảm tính
cạnh tranh của ngành so với các nước trong khu vực trong
bối cảnh hoạt động xuất nhập khẩu đang gia tăng mạnh mẽ.
Theo dự báo của IMF, xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ có
thể tăng trưởng trở lại với tốc độ trung bình là khoảng 16 –
17% trong 4 năm sau khi chững lại trong năm 2009 do sự đi
xuống của kinh tế thế giới.
Nhận thức điểm yếu ngành có thể là rào cản cho thương
mại quốc gia, Chính Phủ Việt Nam đã đẩy nhanh kế hoạch
xây dựng các cảng biển nước sâu đón tàu lớn tại các vùng
kinh tế trọng điểm. Đồng thời, các doanh nghiệp vận tải biển
cũng đuợc khuyến khích đầu tư cải thiện năng lực vận tải
với mục tiêu đến năm 2010 đáp ứng 25% nhu cầu vận tải
hàng hóa xuất nhập khẩu, đến năm 2020 là 35% và vận tải
biển nội địa là 100%.
Sở hữu 3,200 km bờ biển và khoảng 198,000 km sông ngòi
dọc đất nước, vận tải đường biển triển mạnh mẽ nhất trong
số các lĩnh vực vận tải công nghiệp ở Việt Nam. Ngành hàng
hải mỗi năm hỗ trợ 80% tổng khối lượng hàng hóa lưu
chuyển trong và ngoài nước. Từ năm 1995 đến nay, ngành
luôn đi cùng sự tăng trưởng giao thương hàng hóa và cùng
có tốc độ gia tăng sản lượng bình quân 15%/năm. Với 1 nền
kinh tế đang hội nhập, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng
với tốc độ gần 20%/năm, ngành hàng hải của Việt Nam đang
ngày càng khẳng định vai trò xương sống cho sự phát triển
thương mại hàng hóa của đất nước.
Biểu đồ1 : Sản lượng vận tải đường thủy trong cơ cấu
ngành vận tải công nghiệp
0 50 100 150 200
7 tháng 2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
1999
1998
1997
1996
1995
năm
tỷ tấn.km
KL VT đường thủy KL VT ngành khác
Tổng quan ngành
03
Báo cáo phân tích ngành
Giới thiệu hệ thống cảng của Việt Nam
Việt Nam có tổng số 266 cầu cảng lớn nhỏ phân bố trên cả 3
miền Bắc – Trung - Nam. Hiện có 9 cảng chính có thể đón tàu
quốc tế như Cái Lân, Đình Vũ, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài
Gòn…. Phần lớn các cảng này do Vinalines quản lý.
So với các nước ven biển, mật độ cảng của nước ta tương đối
dầy. Tuy nhiên, phần đông các cảng thuộc loại nhỏ do nằm
sâu trong sông, cách biển từ 30 – 90m, với luồng lạch khá
nông, đa số dưới 10m. Do đó, 82% số cầu cảng chỉ cho phép
tàu có trọng tải dưới 20,000 DWT vào ăn hàng và được sử
dụng chủ yếu cho thương mại địa phương. Trang thiết bị ở
các cảng cũng chủ yếu phục vụ làm hàng dời với năng suất
bốc xếp thấp, ngay cả đối với những cảng chính cũng chỉ
bằng khoảng 40 -50% các cảng trong khu vực.
Biểu đồ 2 : So sánh năng lực bốc xếp của các cảng
khu vực ĐNA
(Nguồn : www.business-in-asia.net)
Các cảng phía Nam có lưu lượng hàng hóa lớn nhất cả nước,
chiếm 51% về số lượng cảng và 65% về khối lượng hàng hóa
qua cảng. Do đây là khu kinh tế trọng điểm của cả nước, đóng
góp gần 100% sản lượng xuất khẩu nông nghhiệp và 55% sản
lượng sản xuất công nghiệp cả 3 miền mỗi năm.
Sài Gòn là khu vực tập trung nhiều cảng lớn nhất phía Nam.
Tuy nhiên, do các cảng nằ...
Download Báo cáo Phân tích ngành hàng hải miễn phí
Ngành kinh doanh dịch vụ hàng hải bao gồm 2 mảng: khai
thác dịch vụ cảng và dịch vụ vận tải. Ở Việt Nam, ngành này
đang hỗ trợ khoảng 80% việc lưu chuyển hàng hóa thương
mại.
Nền kinh tế đất nước hội nhập là cơ hội phát triển lớn ngành
hàng hải. Sản lượng xuất nhập khẩu cũng như sản lượng
hàng hải đều tăng trưởng trên dưới 20% trong 10 năm qua.
Chính phủ đã đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng cảng biển,
đồng thời khuyến khích đầu tư vận tải biển. Trong hơn 10
năm phát triển, năng lực cảng cũng như năng lực đội tàu đã
tăng gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của cơ sở
hạ tầng ngành hiện đang chậm hơn một bước so với phát
triển kinh tế và vận tải biển vẫn đang nhường lại sân cho các
doanh nghiệp nước ngoài.
Giá cước vận tải biến động mạnh trong năm 2008, cùng
thương mại toàn cầu suy giảm do khủng hoảng khiến hoạt
động kinh doanh vận tải gặp nhiều khó khăn trong năm 2009.
Sản lượng qua cảng cũng giảm, ngoại trừ các cảng
container.
Sau năm 2010, nền kinh tế Việt Nam vẫn được dự báo tăng
trưởng và đạt mức 7% trở lại trong những năm sau 2010.
Nhu cầu cho ngành được kỳ vọng là cũng sẽ gia tăng mạnh
mẽ trở lại. Chính Phủ kêu gọi, khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia đầu tư phát triển cảng biển và nâng cao
năng lực đội tàu quốc gia.
Trên sàn GDCK, kết quả kinh doanh của các DN hàng hải sụt
giảm nghiêm trọng đặt trong triển vọng không mấy sáng sủa
của ngành trong ngắn hạn khiến cổ phiếu của ngành trở nên
kém hấp dẫn đối với nhà đầu tư, nhất là cổ phiếu lĩnh vực
vận tải. Tuy nhiên, các DN cảng vẫn cho thấy còn nhiều cơ
hội.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
Đẳng cấp của thịnh vượngNội dung
Tổng quan ngành
Đặc điểm của ngành
1. Khai thác cảng
Giới thiệu hệ thống cảng Việt Nam
Nhu cầu hàng hóa qua cảng
Hoạt động của các doanh nghiệp cảng
Phân tích SWOT
2. Vận tải biển
Giới thiệu đội tàu và tuyến vận tải
Hoạt động vận tải biển
Phân tích SWOT
Hỗ trợ phát triển từ CP
Các doanh nghiệp hàng hải niêm yết
Ngành kinh doanh dịch vụ hàng hải bao gồm 2 mảng: khai
thác dịch vụ cảng và dịch vụ vận tải. Ở Việt Nam, ngành này
đang hỗ trợ khoảng 80% việc lưu chuyển hàng hóa thương
mại.
Nền kinh tế đất nước hội nhập là cơ hội phát triển lớn ngành
hàng hải. Sản lượng xuất nhập khẩu cũng như sản lượng
hàng hải đều tăng trưởng trên dưới 20% trong 10 năm qua.
Chính phủ đã đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng cảng biển,
đồng thời khuyến khích đầu tư vận tải biển. Trong hơn 10
năm phát triển, năng lực cảng cũng như năng lực đội tàu đã
tăng gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của cơ sở
hạ tầng ngành hiện đang chậm hơn một bước so với phát
triển kinh tế và vận tải biển vẫn đang nhường lại sân cho các
doanh nghiệp nước ngoài.
Giá cước vận tải biến động mạnh trong năm 2008, cùng
thương mại toàn cầu suy giảm do khủng hoảng khiến hoạt
động kinh doanh vận tải gặp nhiều khó khăn trong năm 2009.
Sản lượng qua cảng cũng giảm, ngoại trừ các cảng
container.
Sau năm 2010, nền kinh tế Việt Nam vẫn được dự báo tăng
trưởng và đạt mức 7% trở lại trong những năm sau 2010.
Nhu cầu cho ngành được kỳ vọng là cũng sẽ gia tăng mạnh
mẽ trở lại. Chính Phủ kêu gọi, khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia đầu tư phát triển cảng biển và nâng cao
năng lực đội tàu quốc gia.
Trên sàn GDCK, kết quả kinh doanh của các DN hàng hải sụt
giảm nghiêm trọng đặt trong triển vọng không mấy sáng sủa
của ngành trong ngắn hạn khiến cổ phiếu của ngành trở nên
kém hấp dẫn đối với nhà đầu tư, nhất là cổ phiếu lĩnh vực
vận tải. Tuy nhiên, các DN cảng vẫn cho thấy còn nhiều cơ
hội.
NGÀNH HÀNG HẢI
Tháng 8/ 2009
Tóm tắt
02 Báo cáo phân tích ngành
Ngành hàng hải của nước ta bắt đầu phát triển từ những
năm 1990s, khi kinh tế và thương mại bắt đầu mở cửa.
Tháng 6 năm 1990, Bộ Luật Hàng Hải Việt Nam ra đời, tạo
nền tảng pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành. Cũng trong thời gian này, Cục Hàng Hải Việt Nam -
cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành và Tổng công ty
Hàng Hải Việt Nam, Vinalines – Doanh nghiệp thay mặt nhà
nước kinh doanh vận tải biển, quản lý kinh doanh cảng biển
và dịch vụ hàng hải, được thành lập nhằm định hướng hoạt
động ngành phù hợp với chiến lược phát triển tổng thể.
Về xây dựng, quản lý và khai thác cảng biển, cả nước đã
hình thành một hệ thống gồm 8 nhóm cảng theo một quy
hoạch đã được Thủ tướng phê duyệt năm 1999. Hiện có
tổng số 49 cảng trong cả nước. Các cảng chính có thể đón
tàu quốc tế tập trung tại 4 thành phố lớn là Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng và Vũng Tàu và hầu hết được quản lý bởi
Vinalines. Vinalines cũng nắm giữ khoảng 60% tổng trọng
tải đội tàu. Hiện, đội tàu quốc gia hiện có tổng trọng tải gần
3 triệu DWT đăng k y’.
Tuy nhận được hỗ trợ và khuyến khích đầu tư mạnh mẽ về
cơ sở hạ tầng từ Chính Phủ, cả hệ thống cảng và đội tàu
của chúng ta hiện đều cho thấy sự tụt hậu so với sự tốc độ
tăng trưởng của ngành thương mại. Tình trạng ùn tắc giao
thông tại cảng trung tâm thường xuyên xảy ra trong vài năm
trở lại đây. Các công ty vận tải trong nước cũng chỉ đáp ứng
được khoảng 20% sản lượng hàng hóa lưu chuyển mỗi
năm, và nhường phần còn lại cho các hãng nước ngoài.
Hơn nữa, trong khi vận chuyển hàng container đang trở
thành xu thế chung của thế giới thì hiện cảng và đội tàu của
nước ta vẫn chủ yếu phục vụ hàng dời. Điều này làm giảm
hiệu quả trong lưu chuyển hàng hóa, đồng thời giảm tính
cạnh tranh của ngành so với các nước trong khu vực trong
bối cảnh hoạt động xuất nhập khẩu đang gia tăng mạnh mẽ.
Theo dự báo của IMF, xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ có
thể tăng trưởng trở lại với tốc độ trung bình là khoảng 16 –
17% trong 4 năm sau khi chững lại trong năm 2009 do sự đi
xuống của kinh tế thế giới.
Nhận thức điểm yếu ngành có thể là rào cản cho thương
mại quốc gia, Chính Phủ Việt Nam đã đẩy nhanh kế hoạch
xây dựng các cảng biển nước sâu đón tàu lớn tại các vùng
kinh tế trọng điểm. Đồng thời, các doanh nghiệp vận tải biển
cũng đuợc khuyến khích đầu tư cải thiện năng lực vận tải
với mục tiêu đến năm 2010 đáp ứng 25% nhu cầu vận tải
hàng hóa xuất nhập khẩu, đến năm 2020 là 35% và vận tải
biển nội địa là 100%.
Sở hữu 3,200 km bờ biển và khoảng 198,000 km sông ngòi
dọc đất nước, vận tải đường biển triển mạnh mẽ nhất trong
số các lĩnh vực vận tải công nghiệp ở Việt Nam. Ngành hàng
hải mỗi năm hỗ trợ 80% tổng khối lượng hàng hóa lưu
chuyển trong và ngoài nước. Từ năm 1995 đến nay, ngành
luôn đi cùng sự tăng trưởng giao thương hàng hóa và cùng
có tốc độ gia tăng sản lượng bình quân 15%/năm. Với 1 nền
kinh tế đang hội nhập, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng
với tốc độ gần 20%/năm, ngành hàng hải của Việt Nam đang
ngày càng khẳng định vai trò xương sống cho sự phát triển
thương mại hàng hóa của đất nước.
Biểu đồ1 : Sản lượng vận tải đường thủy trong cơ cấu
ngành vận tải công nghiệp
0 50 100 150 200
7 tháng 2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
1999
1998
1997
1996
1995
năm
tỷ tấn.km
KL VT đường thủy KL VT ngành khác
Tổng quan ngành
03
Báo cáo phân tích ngành
Giới thiệu hệ thống cảng của Việt Nam
Việt Nam có tổng số 266 cầu cảng lớn nhỏ phân bố trên cả 3
miền Bắc – Trung - Nam. Hiện có 9 cảng chính có thể đón tàu
quốc tế như Cái Lân, Đình Vũ, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài
Gòn…. Phần lớn các cảng này do Vinalines quản lý.
So với các nước ven biển, mật độ cảng của nước ta tương đối
dầy. Tuy nhiên, phần đông các cảng thuộc loại nhỏ do nằm
sâu trong sông, cách biển từ 30 – 90m, với luồng lạch khá
nông, đa số dưới 10m. Do đó, 82% số cầu cảng chỉ cho phép
tàu có trọng tải dưới 20,000 DWT vào ăn hàng và được sử
dụng chủ yếu cho thương mại địa phương. Trang thiết bị ở
các cảng cũng chủ yếu phục vụ làm hàng dời với năng suất
bốc xếp thấp, ngay cả đối với những cảng chính cũng chỉ
bằng khoảng 40 -50% các cảng trong khu vực.
Biểu đồ 2 : So sánh năng lực bốc xếp của các cảng
khu vực ĐNA
(Nguồn : www.business-in-asia.net)
Các cảng phía Nam có lưu lượng hàng hóa lớn nhất cả nước,
chiếm 51% về số lượng cảng và 65% về khối lượng hàng hóa
qua cảng. Do đây là khu kinh tế trọng điểm của cả nước, đóng
góp gần 100% sản lượng xuất khẩu nông nghhiệp và 55% sản
lượng sản xuất công nghiệp cả 3 miền mỗi năm.
Sài Gòn là khu vực tập trung nhiều cảng lớn nhất phía Nam.
Tuy nhiên, do các cảng nằ...