jugenklinsman
New Member
Download Đề tài Bảo hiểm thương mại
1. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội:
- Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
- Mức đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người LĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người LĐ lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
- Người LĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH.
- Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
- Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Đặc điểm của bảo hiểm thương mại:
Hoạt động bảo hiểm thương mại là một hoạt động thỏa thuận (nên còn gọi là bảo hiểm tự nguyện)
Sự tương hổ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một "cộng đồng có giới hạn", một "nhóm đóng"
Bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự.
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại:
Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít
Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, trong đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận các khoản tiền gọi là phí bảo hiểm từ người tham gia bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải trả khoản tiền cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm. Xét trên khía cạnh với một người tham gia bảo hiểm, khoản tiền chi trả hay bồi thường này lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí đóng bảo hiểm. Chính vì vậy nguyên tắc quan trọng nhất đó là hoạt động BHTM phải dựa trên nguyên tắc: SỐ ĐÔNG BÙ SỐ ÍT – tức là rủi ro xảy ra đối với một hay một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.
Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm
Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm dựa trên nguyên tắc bù đắp thiệt hại tài chính cho người tham gia bảo hiểm và luôn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, chính vì vậy không phải với bất kì loại rủi ro nào, doanh nghiệp bảo hiểm cũng chấp nhận các yêu cầu bảo đảm.
Người ta phân chia ra làm 2 loại rủi ro dựa trên tính chất, nguyên nhân gây ra rủi ro và tính chất đồng nhất của rủi ro.
Rủi ro có thể được bảo hiểm: là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được. Nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm là nguyên nhân khách quan và không cố ý.
Rủi ro không được bảo hiểm: là những rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hay gần như chắc chắn xảy ra như hao mòn vật chất tự nhiên, hao hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố ý tự tử. Nguyên nhân gây ra những rủi ro không được Bảo hiểm là nguyên nhân chủ quan và do sự cố ý của người được Bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chỉ chấp nhận bồi thường các rủi ro có thểbảo hiểm và từ chối bảo hiểm trong các trường hợp rủi ro không được bảo hiểm.
Để đảm bảo nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ tùy thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được bảo hiểm lại được sắp xếp, phân loại và áp dụng các mức phí thích hợp. Thông thường đối với các rủi ro có mức xác suất lớn hơn, mức phí đóng sẽ là lớn hơn.
Nguyên tắc rủi ro có thể bảo hiểm:
Tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất thấy trước mà nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản.
Giúp các doanh nghiệp tính được các mức phí chính xác, trên cơ sở đó giúp cho hoạt động bảo hiểm diễn ra dễ dàng hơn, đem lại nguồn lợi lớn cho xã hội trên cơ sở chia sẻ rủi ro cho cả cộng đồng.
Đảm bảo công bằng giữa những người tham gia bảo hiểm.
Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro
Điều quan trọng nhất trong hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm đó là khả năng chi trả bảo hiểm trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Trên thực tế việc thu phí bảo hiểm trên nguyên tắc số đông bù số ít và chỉ áp dụng đối với các loại rủi ro được bảo hiểm đôi khi vẫn không đảm bảo được khả năng này của doanh nghiệp bảo hiểm trong các trường hợp sau:
Giá trị bảo hiểm là rất lớn trong khi quy mô doanh nghiệp bảo hiểm nhỏ hay mới thành lập nên quỹ bảo hiểm chưa huy động được nhiều.
Các rủi ro liên tiếp, đồng loạt cùng xảy ra khiến cho doanh nghiệp
Bảo hiểm phải chi trả nhiều cho người tham gia bảo hiểm.
Một điều thận trọng trong hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm đó là không nhận những rủi ro quá lớn vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên tránh tình trạng từ chối các hợp đồng bảo hiểm này, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ sử dụng nguyên tắc phân tán rủi ro theo 2 cách .
Đồng bảo hiểm: nhiều doanh nghiệp bảo hiểm tham gia bảo hiểm cho cùng một hợp đồng bảo hiểm.
Tái bảo hiểm: Một doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng lại một phần rủi ro cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác.
Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối
Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm và người được bảo hiểm phải tuyệt đối thành thật với nhau, tin tưởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Hợp đồng bảo hiểm sẽ không còn hiệu lực nếu chỉ cần một trong hai bên vi phạm. Hai bên trong hợp đồng bảo hiểm có bổn phận khai báo đầy đủ và chính xác tất cả các yếu tố quan trọng có liên quan, dù được yêu cầu hay không được yêu cầu khai báo. Yếu tố quan trọng là bất kỳ yếu tố nào có ảnh hưởng đến việc chấp nhận bảo hiểm và giải quyết quyền lợi bảo hiểm.
Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm
Nguyên tắc này đưa ra yêu cầu đối với người tham gia bảo hiểm. Đó là nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro, người tham gia bảo hiểm phải có tổn thất về mặt tài chính.
Cụ thể: người tham gia bảo hiểm phải có quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng hay cấp dưỡng.
Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác hay cố tình gây thiệt hại hay tổn thất để thu lợi từ đơn bảo hiểm.
Mức phí:
Bảo hiểm thương mại có mức phí, mức chi trả bồi thường phụ thuộc vào thỏa thuận phù hợp theo nhu cầu (xuất phát từ giá trị tài sản được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa chọn, mức độ quan trọng của rủi ro,...) và khả năng của người được bảo hiểm, thông thường nghĩa vụ và quyền lợi trên Hợp đồng bảo hiểm là tương xứng nhau.
Được xác định là số tuyệt đối, trên cơ sở xác suất rủi ro của đối tượng tham gia, phạm vi bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm
BẢO HIỂM XÃ HỘI
Định nghĩa:
Bảo hiểm xã hộilà biện pháp bảo đảm, thay đổi hay bù đắp một phầnthu nhập của người lao động do mất việc làm thông qua một quỹ tiền tệ được tập trung từ sự đóng góp của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội.Bảo hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước.
Lợi ích của bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hay mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hay chết, trên cơ sở mà họ đã đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã và đang góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước, giúp người dân nâng c...
Download Đề tài Bảo hiểm thương mại miễn phí
1. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội:
- Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
- Mức đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người LĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người LĐ lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
- Người LĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH.
- Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
- Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
ạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại địa phương theo quy định của pháp luật.Đặc điểm của bảo hiểm thương mại:
Hoạt động bảo hiểm thương mại là một hoạt động thỏa thuận (nên còn gọi là bảo hiểm tự nguyện)
Sự tương hổ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một "cộng đồng có giới hạn", một "nhóm đóng"
Bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự.
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại:
Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít
Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, trong đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận các khoản tiền gọi là phí bảo hiểm từ người tham gia bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải trả khoản tiền cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm. Xét trên khía cạnh với một người tham gia bảo hiểm, khoản tiền chi trả hay bồi thường này lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí đóng bảo hiểm. Chính vì vậy nguyên tắc quan trọng nhất đó là hoạt động BHTM phải dựa trên nguyên tắc: SỐ ĐÔNG BÙ SỐ ÍT – tức là rủi ro xảy ra đối với một hay một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.
Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm
Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm dựa trên nguyên tắc bù đắp thiệt hại tài chính cho người tham gia bảo hiểm và luôn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, chính vì vậy không phải với bất kì loại rủi ro nào, doanh nghiệp bảo hiểm cũng chấp nhận các yêu cầu bảo đảm.
Người ta phân chia ra làm 2 loại rủi ro dựa trên tính chất, nguyên nhân gây ra rủi ro và tính chất đồng nhất của rủi ro.
Rủi ro có thể được bảo hiểm: là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được. Nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm là nguyên nhân khách quan và không cố ý.
Rủi ro không được bảo hiểm: là những rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hay gần như chắc chắn xảy ra như hao mòn vật chất tự nhiên, hao hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố ý tự tử. Nguyên nhân gây ra những rủi ro không được Bảo hiểm là nguyên nhân chủ quan và do sự cố ý của người được Bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chỉ chấp nhận bồi thường các rủi ro có thểbảo hiểm và từ chối bảo hiểm trong các trường hợp rủi ro không được bảo hiểm.
Để đảm bảo nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ tùy thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được bảo hiểm lại được sắp xếp, phân loại và áp dụng các mức phí thích hợp. Thông thường đối với các rủi ro có mức xác suất lớn hơn, mức phí đóng sẽ là lớn hơn.
Nguyên tắc rủi ro có thể bảo hiểm:
Tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất thấy trước mà nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản.
Giúp các doanh nghiệp tính được các mức phí chính xác, trên cơ sở đó giúp cho hoạt động bảo hiểm diễn ra dễ dàng hơn, đem lại nguồn lợi lớn cho xã hội trên cơ sở chia sẻ rủi ro cho cả cộng đồng.
Đảm bảo công bằng giữa những người tham gia bảo hiểm.
Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro
Điều quan trọng nhất trong hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm đó là khả năng chi trả bảo hiểm trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Trên thực tế việc thu phí bảo hiểm trên nguyên tắc số đông bù số ít và chỉ áp dụng đối với các loại rủi ro được bảo hiểm đôi khi vẫn không đảm bảo được khả năng này của doanh nghiệp bảo hiểm trong các trường hợp sau:
Giá trị bảo hiểm là rất lớn trong khi quy mô doanh nghiệp bảo hiểm nhỏ hay mới thành lập nên quỹ bảo hiểm chưa huy động được nhiều.
Các rủi ro liên tiếp, đồng loạt cùng xảy ra khiến cho doanh nghiệp
Bảo hiểm phải chi trả nhiều cho người tham gia bảo hiểm.
Một điều thận trọng trong hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm đó là không nhận những rủi ro quá lớn vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên tránh tình trạng từ chối các hợp đồng bảo hiểm này, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ sử dụng nguyên tắc phân tán rủi ro theo 2 cách .
Đồng bảo hiểm: nhiều doanh nghiệp bảo hiểm tham gia bảo hiểm cho cùng một hợp đồng bảo hiểm.
Tái bảo hiểm: Một doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng lại một phần rủi ro cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác.
Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối
Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm và người được bảo hiểm phải tuyệt đối thành thật với nhau, tin tưởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Hợp đồng bảo hiểm sẽ không còn hiệu lực nếu chỉ cần một trong hai bên vi phạm. Hai bên trong hợp đồng bảo hiểm có bổn phận khai báo đầy đủ và chính xác tất cả các yếu tố quan trọng có liên quan, dù được yêu cầu hay không được yêu cầu khai báo. Yếu tố quan trọng là bất kỳ yếu tố nào có ảnh hưởng đến việc chấp nhận bảo hiểm và giải quyết quyền lợi bảo hiểm.
Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm
Nguyên tắc này đưa ra yêu cầu đối với người tham gia bảo hiểm. Đó là nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro, người tham gia bảo hiểm phải có tổn thất về mặt tài chính.
Cụ thể: người tham gia bảo hiểm phải có quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng hay cấp dưỡng.
Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác hay cố tình gây thiệt hại hay tổn thất để thu lợi từ đơn bảo hiểm.
Mức phí:
Bảo hiểm thương mại có mức phí, mức chi trả bồi thường phụ thuộc vào thỏa thuận phù hợp theo nhu cầu (xuất phát từ giá trị tài sản được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa chọn, mức độ quan trọng của rủi ro,...) và khả năng của người được bảo hiểm, thông thường nghĩa vụ và quyền lợi trên Hợp đồng bảo hiểm là tương xứng nhau.
Được xác định là số tuyệt đối, trên cơ sở xác suất rủi ro của đối tượng tham gia, phạm vi bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm
BẢO HIỂM XÃ HỘI
Định nghĩa:
Bảo hiểm xã hộilà biện pháp bảo đảm, thay đổi hay bù đắp một phầnthu nhập của người lao động do mất việc làm thông qua một quỹ tiền tệ được tập trung từ sự đóng góp của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội.Bảo hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước.
Lợi ích của bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hay mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hay chết, trên cơ sở mà họ đã đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã và đang góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước, giúp người dân nâng c...