red_pumpkin_90
New Member
Download miễn phí Tiểu luận Bảo tồn và Phát triển văn hóa ghe bầu của Hội An
Ghe bầu có vai trò rất lớn trong nề lịch sử quốc gia về kinh tế và việc mở mang bờ cõi của những thời hoàng đế xưa kia. Trong văn hóa, ghe bầu cũng có một nền tảng khá vững chắc. Ghe bầu không chỉ là phương tiện buôn bán, vận chuyển mà nó còn chuyển tải theo đó những hành trang văn hóa giữa các vùng miền. Đó là gạch nối, là mối giao lưu giữa các miền Bắc, Trung, Nam trên ý nghĩa vật chất và tinh thần.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-29-tieu_luan_bao_ton_va_phat_trien_van_hoa_ghe_bau_cu.pEriF5i92P.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-57630/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
TIỂU LUẬN MÔN XÃ HỘI HỌC CHUYÊN ĐỀCHI TIẾT ĐỀ ÁN
Tên đề án: Bảo tồn và Phát triển văn hóa ghe bầu của Hội An
Địa điểm thực hiện đề án: Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
NỘI DUNG ĐỀ ÁN
Điều kiện kinh tế xã hội của cộng đồng : Quảng Nam là tỉnh ven biển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Diện tích tự nhiên hơn 10.408 km2 với 18 đơn vị hành chính cấp huyện với dân số gần 1,5 triệu người có 93,6% là dân tộc kinh, gần 6,4% dân số là các dân tộc ít người (trong đó chủ yếu là dân tộc Cơ-Tu, Xơ đăng, Mnông, Co, Gié-Triêng,..); dân số thành thị chiếm 17,51%; dân số 15 tuổi trở lên hơn 1,09 triệu người chiếm tỷ lệ 72,94% trong tổng dân số.
Là tỉnh có cả miền núi, trung du, đồng bằng, đô thị, vùng cát ven biển và hải đảo. Hệ thống sông ngòi Quảng Nam khá chằng chịt. Đồng bằng Quảng Nam bị nhiều sông ngòi chia cắt và nhiều ngọn núi nổi lên ngay giữa đồng bằng. Đồng bằng so với các tỉnh Trung bộ tương đối rộng, có nơi khoảng cách từ bờ biển vào giáp núi rộng hơn 40 km. Đất sản xuất nông nghiệp 110.704 ha chiếm 10,61% diện tích đất tự nhiên và chiếm 16,26% diện tích đất nông lâm nghiệp. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp chiếm hơn 80% tổng diện tích đất nông lâm nghiệp, được phân bổ chủ yếu trên địa bàn 8 huyện miền núi của tỉnh, có địa hình phức tạp nhưng tài nguyên rừng là tiềm năng lớn.
Tỉnh Quảng Nam nằm ở trung độ của Việt Nam, cách Hà Nội 860 km về phía Bắc, cách TP Hồ Chí Minh 865 km về phía Nam. Với vị trí trung độ của cả nước, giao điểm giữa 2 vùng kiến tạo địa lý, giao thoa 2 miền khí hậu Bắc - Nam, địa hình da dạng với núi, trung du, đồng bằng ven biển cùng với những ưu thế về bề dày lịch sử, văn hóa, con người, danh thắng... tạo cho Quảng Nam tiềm năng lớn để phát triển du lịch.
Qua bao thăng trầm biến cố, Quảng Nam vẫn lưu giữ được những tài nguyên văn hóa vô cùng độc đáo, có giá trị nhân văn sâu sắc, tiêu biểu là 2 Di sản văn hoá thế giới: phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn, kinh đô cổ Trà Kiệu, các tháp chàm Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bàng An, Phật viện Đồng Dương...ghi lại dấu ấn rực rỡ của nền văn hóa Sa Huỳnh, Champa, Đại Việt.
Hội An nằm bên bờ sông Thu Bồn. Nơi đây xưa kia đã có một thời nổi tiếng với tên gọi Faifoo mà các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Ðào Nha, Italia v.v.. đã biết đến từ thế kỷ 16, 17. Từ thời đó, thương cảng Hội An đã thịnh vượng, là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á, một trong những trạm đỗ chính của thương thuyền vùng Viễn Ðông.
Hội An có những dãy phố cổ gần như nguyên vẹn, đó là loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia. Trong đó có một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hội An. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quý, trong nhà treo hoành phi, câu đối, cột nhà trạm trổ hoa văn rất cầu kỳ... Hội An là một bảo tàng sống, khu phố cổ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới.
Dân Hội An - Quảng Nam là dân miền Trung cũng được dân Nam bộ ngày xưa mệnh danh là dân ghe bầu. Nhiều người trẻ ngày nay phì cười, khi nghe tên ghe bầu ấy. Nhưng những ông già bà cả, kể cả những người sống dưới thời Pháp thuộc, đối với ngành hoạt động này vẫn coi nó như sự phát triển đích thực của tinh thần yêu nước trên sóng biển Đông.
Ghe bầu có vai trò rất lớn trong nề lịch sử quốc gia về kinh tế và việc mở mang bờ cõi của những thời hoàng đế xưa kia. Trong văn hóa, ghe bầu cũng có một nền tảng khá vững chắc. Ghe bầu không chỉ là phương tiện buôn bán, vận chuyển mà nó còn chuyển tải theo đó những hành trang văn hóa giữa các vùng miền. Đó là gạch nối, là mối giao lưu giữa các miền Bắc, Trung, Nam trên ý nghĩa vật chất và tinh thần.
Trong kho tàng ca dao có khá nhiều câu phản ánh thực tế hoạt động của các lái, những tâm tư tình cảm của họ cũng được gửi gắm vào đó thông qua hình ảnh chiếc ghe bầu. Những làn điệu hò khoan trên những chuyến hải trình xa đã giúp cho họ vơi đi nỗi nhớ nhà:
Ghe bầu dọn dẹp kéo neo Mấy chú bạn chào bắt cái hò khoan
Hay nỗi niềm của những cô gái đã trót yêu những anh chàng bạn ghe, phải để lại mẹ già:
Ghe bầu trở lái về đông Con gái theo chồng bỏ mẹ ai nuôi
Ghe bầu còn là phương tiện chuyên chở thông điệp tình yêu:
Chim quyên đậu lái ghe bầu Miệng kêu bớ Bẩy xuống lầu trao thơ
Có một chút so sánh giữa việc lấy Hoa kiều với những anh đi ghe bầu chân chất mà nghèo:
Lấy khách Quảng Đông ăn hồng với táo Lấy bạn ghe bầu ăn cháo gạo lương
Khi quay trở lại bến cũ thì cũng chính chiếc ghe ấy là lời tỏ tình dễ thương của chàng trai Ngũ Quảng chân chất mà hào sảng, đem “lễ vật” biển đi cầu hôn người mình yêu thương. Đó là cuộc tình duyên mặn mà dí dỏm, hồn hậu của người dân xứ biển:
Cô kia bới tóc cánh tiên Ghe bầu đi cưới một thiên cá mòi Chẳng tin giở thử ra coi Rau răm ở dưới cá mòi ở trên
Và khi nói đến ghe bầu thì không thể không nhắc đến Vè Các lái hay Vè Thủy trình, Vè Nhật trình. Các làng chài ven biển Nam Trung Bộ vẫn còn lưu hành những bài vè này với những dị bản khác nhau. Đây thực chất là một bản hải trình đơn giản, do những người làm nghề vận chuyển ghe bầu Bắc Nam sáng tác, đúc kết dưới hình thức vần vè, miêu tả đầy đủ các địa danh với những mũi, hòn, cù lao, rạn đá ngầm hay san hô cùng những vũng, núi, bến cảng, cửa sông, phố xá trên đất liền và cả những nơi hiểm trở thường gây tai nạn cho thuyền bè qua lại. Có thể nói, đây là một cẩm nang của dân đi buôn đường biển.
Ghe bầu các lái đi buôn Đêm khuya ngồi buồn, kể chuyện ngâm nga Bắt đầu Gia Định kể ra Anh em thuận hòa ngoài Huế kể vô
Dựa vào các địa danh xưa, những từ ngữ cổ, những hiện tượng sinh hoạt, giao lưu, buôn bán được thể hiện qua nội dung bài vè, chúng ta có thể đoán định bài vè này ra đời vào khoảng đầu thế kỷ XIX, là sáng tác tập thể và liên tục được bổ sung hoàn chaenh dần dần sau đó. Đây cũng là giai đoạn kinh tế phát triển, việc vận chuyển hàng hóa giữa kinh đô Huế với Gia Định diễn ra khá tấp nập. Vè Các lái có nhiều dị bản được lưu truyền ở các địa phương với hai bài Vè Lái vô và Vè Lái ra. Mỗi bài có gần 200 câu, cách diễn đạt có phần nôm na, chân chất, thiếu sự trau chuốt từ ngữ nhưng lại gần gũi với môi trường “sóng gió” củacưdânbiển. Dân ghe bầu có nhiều tục kiêng khem không khác nào ngư dân, trên đường đi họ thường ghé vào các miếu thờ được coi là linh thiêng để cầu cúng, đặc biệt liên quan đến tín ngưỡng phồnthực. Tại Cẩm Nam (Hội An), nay vẫn còn miếu thờ các vạn ghe bầu. đặc biệt là miếu thờ Lăng Ông tức cá voi chết trôi vào bờ, đánh dấu sự quan hệ của biển cả với ngư dân thời trước. Còn các vạn ghe bầu thì chúng ta có biết qua tình hình hoạt động của nó sau thế kỉ XVII. Nhờ sự hoạt động này mà Xứ Đàng Trong phát triển vượt hẳn lối chuyên chở ngày trước, và cũng nhờ loại ghe nổi tiếng này mà quan hệ của miền Trung và miền Nam đã có hiệu quả như ta thấy ngày nay.
Thật vậy, ghe bầu ngày nay dường như đã trở thành một từ lạ l