be_map1986
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cho nền kinh tế nước ta có được sự phát triển năng động như hiện nay, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động kinh tế vừa làm giàu cho mình vừa làm giàu cho đất nước. Từ đó, các loại hình công ty ở nước ta cũng xuất hiện rất nhiều khi nhà nước mở cửa thị trường. Ngoài các loại hình công ty nằm trong khối quốc doanh thì hiện nay các loại hình công ty mang tính chất tư nhân đang phát triển rầm rộ như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên….Trong đó, có một loại hình công ty khá phổ biến đó là công ty hợp danh. Công ty hợp danh là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty, được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối nhân chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận và điều chỉnh, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn, từ đó bắt kịp xu hướng chung của thế giới. Song thực tế hiện nay, cái tên “công ty hợp danh” còn khá là mới mẻ dù đã trải qua hơn mười năm từ khi pháp luật thừa nhận nó. Tuy luật Doanh nghiệp 2005 quy định khá chi tiết đã quy định khá chi tiết về loại hình công ty này, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập và vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của loại hình công ty hợp danh. Chính vì lý do trên mà em quyết định chọn đề tài “Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh” để làm bài tập lớn học kì với mong muốn bổ sung và củng cố thêm kiến thức đã học.
NỘI DUNG
I. Khái niệm và đặc điểm chung của công ti hợp danh.
1.1. Khái niệm:
Công ty hợp danh là một loại hình công ty trong đó các thành viên chia sẻ lợi nhuận cũng như thua lỗ của công ty mà họ cùng nhau đầu tư vào. Tại hầu hết các nước, công ty hợp danh được tạo nên từ một hợp đồng hợp tác giữa các cá nhân, những người với tinh thần hợp tác, đồng ý thành lập nên doanh nghiệp, đóng góp cho nó bằng tài sản, hiểu biết, hoạt động và cùng chia sẻ lợi nhuận. Giữa các thành viên có thể có một hợp đồng hợp tác hay một bản tuyên bố hợp tác và trong một số hệ thống luật pháp, những thỏa thuận như vậy có thể được đăng ký và công bố rộng rãi cho công chúng. Ở nhiều nước, công ty hợp danh có thể được coi là có tư cách pháp nhân, trong khi một số nước khác lại có quan điểm trái ngược.
1.2. Đặc điểm:
Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp Việt nam 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sỡ hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên có thể có thành viên góp vốn; Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Như vậy, nếu căn cứ vào những đặc điểm trên thì công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp có thể được chia ra làm hai loại. Loại thứ nhất là loại chỉ gồm những thành viên hợp danh (hợp danh tuyệt đối). Loại thứ hai là công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn loại này các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản (hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ty đối nhân. Nhưng hai “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Việc Luật Doanh nghiệp 2005 gộp chung hai hình thức công ty hợp danh dưới một tên gọi chung và một quy chế pháp lý chung đã dẫn đến nhiều bất cập, mà trước hết là quy định về số lượng thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi nó là điều kiện buộc công ty phải giải thể. Một trong những trường hợp mà các doanh nghiệp bắt buộc phải giải thể theo quy định tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 đó là “Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục”. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì cứ theo lượng thành viên tối thiểu mà luật Doanh nghiệp quy định, nếu không đủ trong sáu tháng liên tục thì giải thể, nhưng đối với công ty hợp danh là cả một vấn đề lớn. Đối với công ty hợp danh thông thường chỉ bao gồm một loại thành viên hợp danh thì rất đơn giản nhưng đối với công ty hợp danh hữu hạn, việc tồn tại của thành viên góp vốn có ý nghĩa quan trọng thay đổi bản chất công ty, luật chỉ quy định “ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn” mà không quy định trong công ty hợp danh hữu hạn thì phải có tối thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn, nếu chỉ áp dụng điều kiện chung là không đủ hai thành viên hợp danh thì công ty giải thể, vậy khi không còn một thành viên góp vốn nào trong công ty hợp danh hữu hạn thì công ty không giải thể? Mà khi không còn thành viên góp vốn thì liệu rằng công ty đó có còn đúng bản chất là công ty hợp danh hữu hạn nữa hay không? Ta thấy quy định của pháp luật về vấn đề này còn cứng nhắc, khó áp dụng trong thực tiễn.
Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều phân tách riêng biệt hai loại công ty hợp danh với hai quy chế điều chỉnh riêng biệt, hay là chỉ chấp nhận một hình thức công ty hợp danh mang bản chất hợp danh tuyệt đối hay là thừa nhận sự tồn tại của hai loại công ty hợp danh và có những quy định riêng biệt tương ứng.
Thành lập công ty hợp danh:
Công ty hợp danh được thành lập và bắt đầu cuộc sống của nó với tư cách là một pháp nhân độc lập sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (K2 Điều 130 Luật DN 2005). Luật Việt Nam nhấn mạnh ý nghĩa của hành vi đăng ký kinh doanh. Trong khi đó, luật lệ nhiều nước lại xem hợp danh như khế ước, bởi vậy hợp danh có thể được thành lập thông qua thỏa thuận, đăng ký kinh doanh đôi khi chỉ có ý nghĩa công khai hóa. Lý do của vấn đề này có thể luận giải như sau: vì hợp danh trước hết là liên kết của hai hay nhiều người, luật pháp các nước thường đề cao thỏa thuận giữa các thành viên. Công ty hợp danh về nguyên tắc được thiết lập nếu các thành viên đã thỏa thuận cách thức hùn vốn, tạo tài sản chung, chia quyền điều hành và lỗ, lãi. Nói cách khác, khế ước giữa các bên đã xác lập nên hợp danh chứ không phải giấy chứng nhận của cơ quan đăng ký kinh doanh.
Mặc dù vậy, thỏa thuận thành lập công ty hợp danh cũng rất quan trọng theo pháp luật Việt Nam. Nội dung các thỏa thuận này được ghi nhận trong điều lệ công ty hợp danh và giấy đề nghị đăng ký kinh doanh (điều 17, 21, 22 Luật doanh nghiệp). Ngoài các quy định của luật doanh nghiệp, các quy định chung từ điều 388 đến điều 411 của BLDS 2005 vẫn có thể được dẫn chiếu để xem xét hiệu lực của thỏa thuận hợp danh, việc tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết của các thành viên cũng như trách nhiệm pháp lí nếu có vi phạm. Ngoài ra các thành viên hợp danh cần có chứng chỉ hành nghề (ví dụ thẻ luật sư, thẻ kiểm toán viên) đối với những dịch vụ cần có chứng chỉ và các điều kiện hành nghề khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (khoản 5 điều 17 LDN). Hồ sơ, thủ tục thành lập công ty hợp danh được quy định trong Luật doanh nghiệpvà Nghị định 43/2010 của Chính Phủ về đang ký kinh doanh.
Thành viên công ty hợp danh:
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật nước ta thì công ty hợp danh có thể là công ty chỉ có một loại thành viên, đó là thành viên hợp danh. Cũng có thể công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty. Điều này khác với quan niệm của các nhà làm luật ở nước ngoài. Như đã nói ở trên, công ty hợp danh là công ty đối nhân điển hình. Tất cả các thành viên đều chịu trách nhiệm trực tiếp, liên đới và vô hạn về các khoản nợ của công ty. Nếu các thành viên thỏa thuận khác, chẳng hạn có một thành viên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn thì lập tức công ty sẽ không còn là công ty hợp danh nữa mà chuyển thành hình thức công ty khác. Việc các nhà làm luật ở nước ta quy định công ty hợp danh có hai loại thành viên dẫn tới một điều không hợp lý là: “khi công ty hợp danh có hai loại thành viên - một là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với nhau và một thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình - ra đời và hoạt động thì khách hàng, những người có làm ăn quan hệ với công ty, sẽ phải tìm hiểu rõ thành viên nào chịu trách nhiệm hữu hạn và thành viên nào chịu trách nhiệm vô hạn để giao dịch và đòi nợ. Bởi vì, thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn về khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp vào công ty. Khách hàng không có quyền đòi thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trả toàn bộ số nợ cho mình, nếu số nợ đó lớn hơn phần vốn góp của thành viên này. Đây là điểm yếu của quy định pháp luật Việt Nam, với quy định như này thì vấn đề gặp rủi ro của khách hàng khi làm ăn với công ty sẽ cao hơn, hay nói cách khác là nhà làm luật đã đẩy rủi ro về phía khách hàng nhiều hơn.
Ta thấy luật quy định thành viên hợp danh chỉ có thể là cá nhân chứ không thể là pháp nhân vì trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn, trách nhiệm này chỉ có cá nhân mới có thể đảm nhiệm được còn pháp nhân thì vấn đề này rất khó thực hiện. Đây là quy định rất đúng của luật. Còn với thành viên góp vốn thì luật quy định đó có thể là pháp nhân hay là cá nhân hay cả những người được quy định tại Điều 13 trừ cán bộ, công chức được quy định trong pháp lệnh cán bộ, công chức. Còn thành viên hợp danh thì phải tuân theo Điều 13 của luật doanh nghiệp 2003.
Chế độ chịu trách nhiệm:
Như đã nói ở trên thì công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ty. Còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm theo phần vốn góp của thành viên đó vào công ty. Tuy nhiên, những quy định về thành viên góp vốn có sự mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa điểm c Khoản 1 Điều 130 với Khoản 3 Điều 131 và Khoản 2 Điều 140. Điểm c Khoản 1 Điều 130 quy định rằng thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 131 thì quy định trường hợp thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó với công ty. Tại Khoản 2 Điều 140 quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Như vậy khi xảy ra tranh chấp thật khó xác định, việc xác định ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước. Song theo tui nên quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Phát hành chứng khoán.
Theo quy định của luật doanh nghiệp tất cả các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đều được phát hành trái phiếu trừ công ty hợp danh. Nguyên nhân của sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh và các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp xuất phát từ tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế lý do này chưa thỏa đáng. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sở hữu cổ phần là các cổ đông. Trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ nợ của công ty và việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Do vậy, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn toàn phù hợp với bản chất của loại hình công ty này. Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng không ảnh hưởng đến tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh.
cũng như trong quan hệ với pháp luật. Nhưng ta lại thấy trong công ty hợp danh tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền điều hành kinh doanh và theo Khoản 1 Điều 137 thì: “các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức diều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty”. Như vậy ta thấy vai trò của các thành viên hợp danh trong công ty rất lớn, bởi vì họ có quyền quyết định tất cả các vấn đề của công ty. Vai trò của giám đốc hay tổng giám đốc không lớn lắm, họ chỉ làm nhiệm vụ phân công, phối hợp, điều hòa công việc giữa các thành viên hợp danh; điều hành công ty theo sự phân công, phân nhiệm hoặc ủy quyền của hội đòng thành viên. Giám đốc công ty hợp danh không có quyền tự quyết bất cứ một vấn đề gì nếu không thông qua hội đồng thành viên của công ty. Ngay cả trong việc đại diện cho công ty trong quan hệ với nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hay nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp khác thì đơn giản cũng chỉ vì chủ tịch hội đồng thành viên , giám đốc hoặc tổng giám đốc đó cũng chính là thành viên hợp danh của công ty hợp danh mà thôi.
2.5. Giải thể và phá sản công ty hợp danh
Cũng như các doanh nghiệp khác, hợp danh có thể được giải thể tự nguyện hay bắt buộc; khi mất khả năng thanh toán có thể được xử lí theo thủ tục phá sản doanh nghiệp (điều 157 - 159 LDN).
• Giải thể:
Giải thể công ty là việc chấm dứt sự tồn tại của công ty, chấm dứt hoạt động kinh doanh của công ty theo quyết định của cơ quan đã cấp giấy phép hoạt động cho công ty hợp danh đó. Sau khi hoàn tất thủ tục giải thể, công ty sẽ bị xóa tên trong sổ đăng kí kinh doanh. Công ty hợp danh bị giải thể trong các trường hợp sau: Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ của công ty mà không có quyết định gia hạn; Giải thể theo quyết định của tất cả các thành viên. Đây là trường hợp các thành viên hợp danh không muốn kinh doanh chung nữa nên quyết định giải thể công ty. Trường hợp này công ty giải thể theo ý muốn chủ quan của các thành viên chứ không phải từ phía các cơ quan nhà nước; Công ty không đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy đinh của luật doanh nghiệp 2005 trong thời hạn 6 tháng. Như đã nói ở trên thì thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có vai trò rất lớn, nếu trong trường hợp một thành viên xin rút khỏi công ty hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết thì rất dễ dẫn tới việc công ty bị giải thể. Vì các thành viên hợp danh là những người “sống chết có nhau” nên nếu một thành viên ra khỏi công ty hoặc chết thì rất khó để tiếp nhận thành viên mới vào công ty. Vì thành viên hợp danh là những người kinh doanh nhân danh công ty, không kể trong trường hợp công ty đòi hỏi phải có giấy phép hành nghề của các thành viên hợp danh cho nên việc tìm thành viên mới để thay thế thành viên cũ là rất khó; Công ty bị giải thể do bị thu hồi giấy phép đăng kí kinh doanh. Đây là trường hợp công ty vi phạm các quy định của nhà nước nên bị thu hồi giấy phép kinh doanh. Việc giải thể này không phụ thuộc vào các thành viên của công ty.
• Phá sản công ty hợp danh:
Trong phá sản, thành viên hợp danh khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản có quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản đối với công ty. Nhưng thủ tục giải quyết phá sản của công ty hợp danh có điểm khác biệt so với các loại hình khác. Kể cả khi công ty được xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh sau khi thanh lí theo thủ tục phá sản, điều đáng lưu ý là các thành viên hợp danh không được tuyên bố miễn trách nhiệm trả nợ; ngược lại, họ vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty (khoản 1 điều 90 Luật phá sản). Một số vấn đề được đặt ra thêm như: Thành viên hợp danh cũng là một thương nhân, có quyền tạo lập các hành vi kinh doanh, ký kết hợp đồng và hoàn toàn có thể có nợ. Trong khi đó, họ lại chịu trách nhiệm vô hạn với tư cách là thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Một điều được đặt ra là họ sẽ phải thanh toán nợ của công ty trước (trong trường hợp công ty không thể thanh toán hết nợ) rồi mới đến nợ của họ đối với người khác hay ngược lại? Việt Nam chưa quy định rõ điều này. Theo Luật Hợp danh thống nhất của Hoa Kỳ thì thành viên hợp danh sẽ phải thanh toán cho chủ nợ của thành viên hợp danh trước, sau đó mới đến nợ của công ty (quy định này áp dụng ngay cả khi chủ nợ của công ty cũng chính là chủ nợ của thành viên hợp danh). Nếu công ty hợp danh chưa trả hết, thành viên hợp danh sẽ phải trả bằng tài sản của mình nhưng theo cách thức nào? Điểm e, khoản 2 điều 134 luật doanh nghiệp có quy định: thành viên hợp danh phải chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình hay theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ty (luật doanh nghiệp 1999 không quy định cách thức nào cả). Hiện nay, theo tinh thần Luật phá sản 2004, việc này phụ thuộc việc định giá và đánh giá lại tài sản góp vốn, đây cũng là một vấn đề không dễ giải quyết. Còn Bộ Luật Thương Mại Sài Gòn 1973 có quy định về cách thức trả nợ này của công ty của thành viên hợp danh tùy thuộc vào khế ước lập hội, nếu không sẽ do các hội viên quyết định theo đa số và nếu có Hội Viên bất đồng ý kiến có thể xin Tòa án xét xử
C. KẾT LUẬN
Tóm lại công ty hợp danh là một mô hình công ty rất phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Nó cho phép các công dân không cần nhiều vốn mà vẫn có thể mở các công ty kinh doanh dựa trên sự liên kết giữa các người thân quen nhau. Những quy đinh của Luật daonh nghiệp 2005 về công ty hợp danh khá hoàn chỉnh. Nó là cở sở pháp lý quan trọng để tiến hành các hoạt động của công ty hợp danh. Tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 vẫn còn có những quy định chưa được hoàn chỉnh về công ty hợp danh. Chính vì vậy mà em mong muốn các nhà làm luật cần nghiên cứu kĩ hơn để đưa ra những quy chế hoàn hảo cho công ty hợp danh. Và, từ đó có thể thu hút được nhiều người hơn tham gia thành lập công ty với mô hình công ty hợp danh này để tăng trưởng thêm nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Đặc biệt hơn là có thể sớm xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta như chủ trương của Đảng và nhà nước đã đề ra.
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Nội dung………………………………………………………..1
I. Khái niệm và đặc điểm chung của công ty hợp danh ………………….1
1.1 Khái niệm của công ty hợp danh………………………………...1
1.2 Đặc điểm của công ty hợp danh. …………………………………1
II. Các quy định về công ty hợp danh ……………………………………6
2.1 Bản chất pháp lý của công ty hợp danh………………………….6
2.2 Quy chế thành viên trong công ty hợp danh……………………7
2.3 Vốn góp trong công ty hợp danh…………………………………11
2.4 Cơ cấu và tổ chức quản lý trong công ty hợp danh……………….12
2.5 Giải thể và phá sản công ty hợp danh……………………………14
Kết luận
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cho nền kinh tế nước ta có được sự phát triển năng động như hiện nay, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động kinh tế vừa làm giàu cho mình vừa làm giàu cho đất nước. Từ đó, các loại hình công ty ở nước ta cũng xuất hiện rất nhiều khi nhà nước mở cửa thị trường. Ngoài các loại hình công ty nằm trong khối quốc doanh thì hiện nay các loại hình công ty mang tính chất tư nhân đang phát triển rầm rộ như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên….Trong đó, có một loại hình công ty khá phổ biến đó là công ty hợp danh. Công ty hợp danh là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty, được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối nhân chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận và điều chỉnh, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn, từ đó bắt kịp xu hướng chung của thế giới. Song thực tế hiện nay, cái tên “công ty hợp danh” còn khá là mới mẻ dù đã trải qua hơn mười năm từ khi pháp luật thừa nhận nó. Tuy luật Doanh nghiệp 2005 quy định khá chi tiết đã quy định khá chi tiết về loại hình công ty này, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập và vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của loại hình công ty hợp danh. Chính vì lý do trên mà em quyết định chọn đề tài “Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh” để làm bài tập lớn học kì với mong muốn bổ sung và củng cố thêm kiến thức đã học.
NỘI DUNG
I. Khái niệm và đặc điểm chung của công ti hợp danh.
1.1. Khái niệm:
Công ty hợp danh là một loại hình công ty trong đó các thành viên chia sẻ lợi nhuận cũng như thua lỗ của công ty mà họ cùng nhau đầu tư vào. Tại hầu hết các nước, công ty hợp danh được tạo nên từ một hợp đồng hợp tác giữa các cá nhân, những người với tinh thần hợp tác, đồng ý thành lập nên doanh nghiệp, đóng góp cho nó bằng tài sản, hiểu biết, hoạt động và cùng chia sẻ lợi nhuận. Giữa các thành viên có thể có một hợp đồng hợp tác hay một bản tuyên bố hợp tác và trong một số hệ thống luật pháp, những thỏa thuận như vậy có thể được đăng ký và công bố rộng rãi cho công chúng. Ở nhiều nước, công ty hợp danh có thể được coi là có tư cách pháp nhân, trong khi một số nước khác lại có quan điểm trái ngược.
1.2. Đặc điểm:
Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp Việt nam 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sỡ hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên có thể có thành viên góp vốn; Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Như vậy, nếu căn cứ vào những đặc điểm trên thì công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp có thể được chia ra làm hai loại. Loại thứ nhất là loại chỉ gồm những thành viên hợp danh (hợp danh tuyệt đối). Loại thứ hai là công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn loại này các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản (hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ty đối nhân. Nhưng hai “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Việc Luật Doanh nghiệp 2005 gộp chung hai hình thức công ty hợp danh dưới một tên gọi chung và một quy chế pháp lý chung đã dẫn đến nhiều bất cập, mà trước hết là quy định về số lượng thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi nó là điều kiện buộc công ty phải giải thể. Một trong những trường hợp mà các doanh nghiệp bắt buộc phải giải thể theo quy định tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 đó là “Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục”. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì cứ theo lượng thành viên tối thiểu mà luật Doanh nghiệp quy định, nếu không đủ trong sáu tháng liên tục thì giải thể, nhưng đối với công ty hợp danh là cả một vấn đề lớn. Đối với công ty hợp danh thông thường chỉ bao gồm một loại thành viên hợp danh thì rất đơn giản nhưng đối với công ty hợp danh hữu hạn, việc tồn tại của thành viên góp vốn có ý nghĩa quan trọng thay đổi bản chất công ty, luật chỉ quy định “ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn” mà không quy định trong công ty hợp danh hữu hạn thì phải có tối thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn, nếu chỉ áp dụng điều kiện chung là không đủ hai thành viên hợp danh thì công ty giải thể, vậy khi không còn một thành viên góp vốn nào trong công ty hợp danh hữu hạn thì công ty không giải thể? Mà khi không còn thành viên góp vốn thì liệu rằng công ty đó có còn đúng bản chất là công ty hợp danh hữu hạn nữa hay không? Ta thấy quy định của pháp luật về vấn đề này còn cứng nhắc, khó áp dụng trong thực tiễn.
Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều phân tách riêng biệt hai loại công ty hợp danh với hai quy chế điều chỉnh riêng biệt, hay là chỉ chấp nhận một hình thức công ty hợp danh mang bản chất hợp danh tuyệt đối hay là thừa nhận sự tồn tại của hai loại công ty hợp danh và có những quy định riêng biệt tương ứng.
Thành lập công ty hợp danh:
Công ty hợp danh được thành lập và bắt đầu cuộc sống của nó với tư cách là một pháp nhân độc lập sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (K2 Điều 130 Luật DN 2005). Luật Việt Nam nhấn mạnh ý nghĩa của hành vi đăng ký kinh doanh. Trong khi đó, luật lệ nhiều nước lại xem hợp danh như khế ước, bởi vậy hợp danh có thể được thành lập thông qua thỏa thuận, đăng ký kinh doanh đôi khi chỉ có ý nghĩa công khai hóa. Lý do của vấn đề này có thể luận giải như sau: vì hợp danh trước hết là liên kết của hai hay nhiều người, luật pháp các nước thường đề cao thỏa thuận giữa các thành viên. Công ty hợp danh về nguyên tắc được thiết lập nếu các thành viên đã thỏa thuận cách thức hùn vốn, tạo tài sản chung, chia quyền điều hành và lỗ, lãi. Nói cách khác, khế ước giữa các bên đã xác lập nên hợp danh chứ không phải giấy chứng nhận của cơ quan đăng ký kinh doanh.
Mặc dù vậy, thỏa thuận thành lập công ty hợp danh cũng rất quan trọng theo pháp luật Việt Nam. Nội dung các thỏa thuận này được ghi nhận trong điều lệ công ty hợp danh và giấy đề nghị đăng ký kinh doanh (điều 17, 21, 22 Luật doanh nghiệp). Ngoài các quy định của luật doanh nghiệp, các quy định chung từ điều 388 đến điều 411 của BLDS 2005 vẫn có thể được dẫn chiếu để xem xét hiệu lực của thỏa thuận hợp danh, việc tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết của các thành viên cũng như trách nhiệm pháp lí nếu có vi phạm. Ngoài ra các thành viên hợp danh cần có chứng chỉ hành nghề (ví dụ thẻ luật sư, thẻ kiểm toán viên) đối với những dịch vụ cần có chứng chỉ và các điều kiện hành nghề khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (khoản 5 điều 17 LDN). Hồ sơ, thủ tục thành lập công ty hợp danh được quy định trong Luật doanh nghiệpvà Nghị định 43/2010 của Chính Phủ về đang ký kinh doanh.
Thành viên công ty hợp danh:
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật nước ta thì công ty hợp danh có thể là công ty chỉ có một loại thành viên, đó là thành viên hợp danh. Cũng có thể công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty. Điều này khác với quan niệm của các nhà làm luật ở nước ngoài. Như đã nói ở trên, công ty hợp danh là công ty đối nhân điển hình. Tất cả các thành viên đều chịu trách nhiệm trực tiếp, liên đới và vô hạn về các khoản nợ của công ty. Nếu các thành viên thỏa thuận khác, chẳng hạn có một thành viên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn thì lập tức công ty sẽ không còn là công ty hợp danh nữa mà chuyển thành hình thức công ty khác. Việc các nhà làm luật ở nước ta quy định công ty hợp danh có hai loại thành viên dẫn tới một điều không hợp lý là: “khi công ty hợp danh có hai loại thành viên - một là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với nhau và một thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình - ra đời và hoạt động thì khách hàng, những người có làm ăn quan hệ với công ty, sẽ phải tìm hiểu rõ thành viên nào chịu trách nhiệm hữu hạn và thành viên nào chịu trách nhiệm vô hạn để giao dịch và đòi nợ. Bởi vì, thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn về khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp vào công ty. Khách hàng không có quyền đòi thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trả toàn bộ số nợ cho mình, nếu số nợ đó lớn hơn phần vốn góp của thành viên này. Đây là điểm yếu của quy định pháp luật Việt Nam, với quy định như này thì vấn đề gặp rủi ro của khách hàng khi làm ăn với công ty sẽ cao hơn, hay nói cách khác là nhà làm luật đã đẩy rủi ro về phía khách hàng nhiều hơn.
Ta thấy luật quy định thành viên hợp danh chỉ có thể là cá nhân chứ không thể là pháp nhân vì trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn, trách nhiệm này chỉ có cá nhân mới có thể đảm nhiệm được còn pháp nhân thì vấn đề này rất khó thực hiện. Đây là quy định rất đúng của luật. Còn với thành viên góp vốn thì luật quy định đó có thể là pháp nhân hay là cá nhân hay cả những người được quy định tại Điều 13 trừ cán bộ, công chức được quy định trong pháp lệnh cán bộ, công chức. Còn thành viên hợp danh thì phải tuân theo Điều 13 của luật doanh nghiệp 2003.
Chế độ chịu trách nhiệm:
Như đã nói ở trên thì công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ty. Còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm theo phần vốn góp của thành viên đó vào công ty. Tuy nhiên, những quy định về thành viên góp vốn có sự mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa điểm c Khoản 1 Điều 130 với Khoản 3 Điều 131 và Khoản 2 Điều 140. Điểm c Khoản 1 Điều 130 quy định rằng thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 131 thì quy định trường hợp thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó với công ty. Tại Khoản 2 Điều 140 quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Như vậy khi xảy ra tranh chấp thật khó xác định, việc xác định ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước. Song theo tui nên quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Phát hành chứng khoán.
Theo quy định của luật doanh nghiệp tất cả các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đều được phát hành trái phiếu trừ công ty hợp danh. Nguyên nhân của sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh và các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp xuất phát từ tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế lý do này chưa thỏa đáng. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sở hữu cổ phần là các cổ đông. Trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ nợ của công ty và việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Do vậy, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn toàn phù hợp với bản chất của loại hình công ty này. Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng không ảnh hưởng đến tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh.
cũng như trong quan hệ với pháp luật. Nhưng ta lại thấy trong công ty hợp danh tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền điều hành kinh doanh và theo Khoản 1 Điều 137 thì: “các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức diều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty”. Như vậy ta thấy vai trò của các thành viên hợp danh trong công ty rất lớn, bởi vì họ có quyền quyết định tất cả các vấn đề của công ty. Vai trò của giám đốc hay tổng giám đốc không lớn lắm, họ chỉ làm nhiệm vụ phân công, phối hợp, điều hòa công việc giữa các thành viên hợp danh; điều hành công ty theo sự phân công, phân nhiệm hoặc ủy quyền của hội đòng thành viên. Giám đốc công ty hợp danh không có quyền tự quyết bất cứ một vấn đề gì nếu không thông qua hội đồng thành viên của công ty. Ngay cả trong việc đại diện cho công ty trong quan hệ với nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hay nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp khác thì đơn giản cũng chỉ vì chủ tịch hội đồng thành viên , giám đốc hoặc tổng giám đốc đó cũng chính là thành viên hợp danh của công ty hợp danh mà thôi.
2.5. Giải thể và phá sản công ty hợp danh
Cũng như các doanh nghiệp khác, hợp danh có thể được giải thể tự nguyện hay bắt buộc; khi mất khả năng thanh toán có thể được xử lí theo thủ tục phá sản doanh nghiệp (điều 157 - 159 LDN).
• Giải thể:
Giải thể công ty là việc chấm dứt sự tồn tại của công ty, chấm dứt hoạt động kinh doanh của công ty theo quyết định của cơ quan đã cấp giấy phép hoạt động cho công ty hợp danh đó. Sau khi hoàn tất thủ tục giải thể, công ty sẽ bị xóa tên trong sổ đăng kí kinh doanh. Công ty hợp danh bị giải thể trong các trường hợp sau: Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ của công ty mà không có quyết định gia hạn; Giải thể theo quyết định của tất cả các thành viên. Đây là trường hợp các thành viên hợp danh không muốn kinh doanh chung nữa nên quyết định giải thể công ty. Trường hợp này công ty giải thể theo ý muốn chủ quan của các thành viên chứ không phải từ phía các cơ quan nhà nước; Công ty không đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy đinh của luật doanh nghiệp 2005 trong thời hạn 6 tháng. Như đã nói ở trên thì thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có vai trò rất lớn, nếu trong trường hợp một thành viên xin rút khỏi công ty hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết thì rất dễ dẫn tới việc công ty bị giải thể. Vì các thành viên hợp danh là những người “sống chết có nhau” nên nếu một thành viên ra khỏi công ty hoặc chết thì rất khó để tiếp nhận thành viên mới vào công ty. Vì thành viên hợp danh là những người kinh doanh nhân danh công ty, không kể trong trường hợp công ty đòi hỏi phải có giấy phép hành nghề của các thành viên hợp danh cho nên việc tìm thành viên mới để thay thế thành viên cũ là rất khó; Công ty bị giải thể do bị thu hồi giấy phép đăng kí kinh doanh. Đây là trường hợp công ty vi phạm các quy định của nhà nước nên bị thu hồi giấy phép kinh doanh. Việc giải thể này không phụ thuộc vào các thành viên của công ty.
• Phá sản công ty hợp danh:
Trong phá sản, thành viên hợp danh khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản có quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản đối với công ty. Nhưng thủ tục giải quyết phá sản của công ty hợp danh có điểm khác biệt so với các loại hình khác. Kể cả khi công ty được xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh sau khi thanh lí theo thủ tục phá sản, điều đáng lưu ý là các thành viên hợp danh không được tuyên bố miễn trách nhiệm trả nợ; ngược lại, họ vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty (khoản 1 điều 90 Luật phá sản). Một số vấn đề được đặt ra thêm như: Thành viên hợp danh cũng là một thương nhân, có quyền tạo lập các hành vi kinh doanh, ký kết hợp đồng và hoàn toàn có thể có nợ. Trong khi đó, họ lại chịu trách nhiệm vô hạn với tư cách là thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Một điều được đặt ra là họ sẽ phải thanh toán nợ của công ty trước (trong trường hợp công ty không thể thanh toán hết nợ) rồi mới đến nợ của họ đối với người khác hay ngược lại? Việt Nam chưa quy định rõ điều này. Theo Luật Hợp danh thống nhất của Hoa Kỳ thì thành viên hợp danh sẽ phải thanh toán cho chủ nợ của thành viên hợp danh trước, sau đó mới đến nợ của công ty (quy định này áp dụng ngay cả khi chủ nợ của công ty cũng chính là chủ nợ của thành viên hợp danh). Nếu công ty hợp danh chưa trả hết, thành viên hợp danh sẽ phải trả bằng tài sản của mình nhưng theo cách thức nào? Điểm e, khoản 2 điều 134 luật doanh nghiệp có quy định: thành viên hợp danh phải chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình hay theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ty (luật doanh nghiệp 1999 không quy định cách thức nào cả). Hiện nay, theo tinh thần Luật phá sản 2004, việc này phụ thuộc việc định giá và đánh giá lại tài sản góp vốn, đây cũng là một vấn đề không dễ giải quyết. Còn Bộ Luật Thương Mại Sài Gòn 1973 có quy định về cách thức trả nợ này của công ty của thành viên hợp danh tùy thuộc vào khế ước lập hội, nếu không sẽ do các hội viên quyết định theo đa số và nếu có Hội Viên bất đồng ý kiến có thể xin Tòa án xét xử
C. KẾT LUẬN
Tóm lại công ty hợp danh là một mô hình công ty rất phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Nó cho phép các công dân không cần nhiều vốn mà vẫn có thể mở các công ty kinh doanh dựa trên sự liên kết giữa các người thân quen nhau. Những quy đinh của Luật daonh nghiệp 2005 về công ty hợp danh khá hoàn chỉnh. Nó là cở sở pháp lý quan trọng để tiến hành các hoạt động của công ty hợp danh. Tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 vẫn còn có những quy định chưa được hoàn chỉnh về công ty hợp danh. Chính vì vậy mà em mong muốn các nhà làm luật cần nghiên cứu kĩ hơn để đưa ra những quy chế hoàn hảo cho công ty hợp danh. Và, từ đó có thể thu hút được nhiều người hơn tham gia thành lập công ty với mô hình công ty hợp danh này để tăng trưởng thêm nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Đặc biệt hơn là có thể sớm xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta như chủ trương của Đảng và nhà nước đã đề ra.
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Nội dung………………………………………………………..1
I. Khái niệm và đặc điểm chung của công ty hợp danh ………………….1
1.1 Khái niệm của công ty hợp danh………………………………...1
1.2 Đặc điểm của công ty hợp danh. …………………………………1
II. Các quy định về công ty hợp danh ……………………………………6
2.1 Bản chất pháp lý của công ty hợp danh………………………….6
2.2 Quy chế thành viên trong công ty hợp danh……………………7
2.3 Vốn góp trong công ty hợp danh…………………………………11
2.4 Cơ cấu và tổ chức quản lý trong công ty hợp danh……………….12
2.5 Giải thể và phá sản công ty hợp danh……………………………14
Kết luận
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: