ngoctram_ken
New Member
CẢ NƯỚC DỒN SỨC GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN
NAM, GIÀNH TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC (1973 - 1975)
Bài này nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước từ sau ngày Hiệp định Pari được kí kết đến khi kết thúc thắng lợi hoàn toàn bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
I- Tình hình địch và ta sau Hiệp định Pari.
Sau khi Hiệp định Pari được kí kết, đế quốc Mĩ phải rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu về nước. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Dù vừa thất bại, nhưng chúng vẫn tiếp tục thực hiện Học thuyết Níchxơn, theo đuổi chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Chúng vẫn để lại ở miền Nam Việt Nam khoảng 20.000 cố vấn quân sự đội lết dân sự, lập ra Bộ chỉ huy trá hình, tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự cho ngụy quyền. Với âm mưu duy trì ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, đế quốc
Mĩ và tay sai tìm tất cả cách phá hoại Hiệp định, ngăn cản con đường hoà hợp dân tộc, thống nhất đất nước. Chỉ tính từ 28-1 đến 28-3- 1973, ngụy quyền Thiệu vừa vi phạm ngừng bắn 67.762 vụ 1. Mĩ tuy rút quân, nhưng không mang theo vũ khí, không triệt phá các căn cứ quân sự mà còn đưa nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh trái phép vào miền Nam.
Về phía ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, được Mĩ giúp sức và trang bị, chúng hô hào "7ràn ngập lãnh thổ", tập trung lực lượng tổ chức các cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng. Riêng trong tháng 11-1973, chúng sử dụng 60% chủ lực và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương, mở trên 360 cuộc hành quân lấn chiếm. Trong năm 1973, quân ngụy tiến hành gần 10.000 cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm ở các vùng tranh chấp từ cấp tiểu đoàn trở lên cùng với 350.000 cuộc hành quân cảnh sát - bình định trong vùng chúng kiểm soát. Chúng ra sức củng cố và tăng cường lực lượng quân sự, nhằm làm cho quân ngụy đủ sức đối phó với quân chủ lực của ta trong tất cả tình huống. Trong năm 1973, địch bắt thêm 240.000 lính, thu thập trên 130.000 quân đào, rã ngũ và bị thương, đưa tổng số quân thường trực lên tới 710.000 tên.
Tất cả tình hình trên chứng tỏ những âm mưu đen tối của Mĩ - ngụy đối với miền Nam nước ta vẫn không thay đổi. Chúng vạch ra nhiều kế hoạch quân sự, chính trị, kinh tế như: Kế hoạch cộng đồng tự vệ và phát triển địa phương (1973 -1975), nhằm lấn chiếm toàn bộ vừng giải phóng của ta, lấp lại những "lõm" trong vùng chúng kiếm soát, xoá bỏ trạng thái hai vùng, hai quân đội, hai chính quyền; kế hoạch xây dựng quân ngụy (1974 - 1979) nhằm hiện đại hoá quân đội ngụy; kế hoạch kinh tế hậu chiến (1973 - 1980) nhằm triển khai toàn diện nền kinh tế thực dân mới thuộc Mĩ, làm cho nền kinh tế miền Nam do chúng kiểm soát hơn hẳn nền kinh tế miền Bắc, loại trừ cách mạng miền Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền Nam Việt Nam.
Âm mưu trên của địch được thực hiện trong hoàn cảnh Việt Nam và Đông Dương vừa có nhiều thay đổi không có lợi cho chúng. Về quân sự, quân viễn chinh vừa rút về nước, viện trợ của Mĩ cho ngụy giảm dần, từ 1.614 triệu đôla năm 1972-1973, rút xuống còn 1.026 triệu đôla năm 1973-1974 và 701 triệu đôla năm 1974-1975. Về chính trị ngụy quyền đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trong khi đó, nước Mĩ chìm ngập trong cuộc "khủng hoảng lòng tin ", kinh tế suy thoái nạn lạm phát và thất nghề tăng, xã hội bị rối loạn...
Về phía ta, từ sau ngày Hiệp định Pari có hiệu lực, Trung ương Đảng dự kiến có hai khả năng: hay là hoà bình được duy trì, Hiệp định được thực hiện từng bước, phong trào cách mạng miền Nam có điều kiện phát triển những bước mới; hay là chiến tranh sẽ tiếp tục. Chúng ta ra sức tranh thủ khả năng thứ nhất và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năng thứ hai.
Trong 3 tháng đầu chuyển sang cách đấu tranh chính trị theo pháp lí của Hiệp định Pari, có nơi, có lúc chúng ta quá nhấn mạnh đến khả năng hoà bình, chưa nhận rõ âm mưu của địch. Do ta mắc khuyết điểm và sơ hở trong chủ trương đối phó với hành động phá hoại Hiệp định Pari của địch, nên chúng vừa lấn chiếm và bình định được nhiều vùng, khống chế lại dân.
Riêng trong năm 1973, trên toàn miền Nam, địch đóng thêm 500 đồn bết, chiếm thêm 70 xã, 740 ấp kiểm soát thêm 650.000 dân. Trước tình hình trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 21 (từ 29-6 đến 6-7-1973) và ra Nghị quyết mang tên: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới". Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: Chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari. Hội nghị nhấn mạnh vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển lực lượng cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết, vừa cơ bản trong giai đoạn mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 chỉ rõ: "Con đường cách mạng của miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời (gian) cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên..." .
Được Nghị quyết Trung ương soi sáng, những hạn chế, thiếu sót trong thời (gian) gian đầu sau Hiệp định Pari được khắc phục. Ngày 15-10-1973, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ra Mệnh lệnh đánh trả hành động chiến tranh của Mĩ - ngụy. Bản Mệnh lệnh nêu rõ quân và dân miền Nam phải nêu cao cảnh giác, kiên quyết đánh trả đích đáng những hành động chiến tranh của Mĩ - ngụy, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, buộc đối phương phải nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định Pari.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng và Mệnh lệnh của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, Quân Giải phóng liên tiếp mở các cuộc tiến công, phản công cục bộ, kết hợp với các cuộc nổi dậy của nhân dân trong vùng địch kiểm soát, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" của địch, giữ vững và mở rộng lớn vùng giải phóng, lũy phần làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường miền Nam có lợi cho ta. Đến giữa năm 1974, trên toàn miền Nam, ta vừa xoá được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp, với 1.150.000 dân .
Bước vào Đông - Xuân 1974 - 1975, sau khi tiêu diệt nhiều cụm cứ điểm, căn cứ quân sự của địch, quân ta phát triển thế chiến lược tiến công trên khắp chiến trường Nam Bộ, hướng chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.
Ngày 13-12-1974, quân ta tiến công chi khu quân sự Bù Đăng, yếu khu Bù Na, hệ thống đồn bốt trên Đường 14, mở đầu chiến dịch Đường 14 - Phước Long. Mục đích của chiến dịch nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tạo thêm bàn đạp tiến công xung quanh Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Trải qua 25 ngày đêm chiến đấu liên tục (từ 13-12-1974 đến 6-1 - 1975), Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long kết thúc thắng lợi: Giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long và đoạn đường 14 dài trên 100 km với hơn 500.000 dân; loại khỏi vòng chiến đấu 1.160 tên địch, 1.000 phòng vệ dân sự ra trình diện; phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh... Mất tỉnh Phước Long, quân ngụy phản ứng một cách tuyệt cú vọng. Tất cả các cánh quân ngụy lên ứng cứu đều bị đánh lui. Chiến thắng Phước Long mang ý nghĩa một đòn trinh sát chiến lược rất quan trọng. Đây là lần đầu tiên ở miền Nam, một tỉnh nằm gần Sài Gòn được hoàn toàn giải phóng. Vùng căn cứ của ta ở miền Đông Nam Bộ được mở rộng.
Chiến thắng Phước Long đánh dấu một bước suy sụp mới của quân ngụy. Đội quân này không còn khả năng giải toả với quy mô lớn để chiếm lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng bị ta đánh chiếm, ngay cả trên tuyến phòng thủ vành ngoài Sài Gòn - Gia Định. Nó còn chứng tỏ Mĩ không có khả năng can thiệp trở lại bằng quân sự vào miền Nam, khi người phát ngôn của Nhà Trắng tuyên bố: "Tổng thống Pho không có ý vi phạm những điều cơm chỉ (của Quốc hội) về chuyện sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kì tại Việt Nam" . Chiến thắng Phước Long cũng cho ta thấy: Nếu quân ta đánh mạnh, đánh lớn, chắc chắn địch không có khả năng chống đỡ.
Trong khi đó, tại các vùng giải phóng, cùng với cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương, nhân dân ta ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, tăng thêm nguồn dự trữ cho tiền tuyến. Riêng nhân dân Khu IX (miền Tây Nam Bộ), trong năm 1973 vừa đóng lũy 1,7 triệu giạ lúa (tương đương 34.000 tấn) và 6 tháng đầu năm 1974 đóng lũy được 2,4 triệu giạ (48.000 tấn). Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghề và các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế... cũng được đẩy mạnh.
Trong khi thế và lực của cách mạng miền Nam đang phát triển đi lên, tại hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta hăng hái lao động và công tác, nhanh chóng khắc phục hậu quả nặng nề do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ gây ra. Chỉ sau 2 năm (1973 - 1974), hầu hết các cơ sở kinh tế, các hệ thống thuỷ nông, giao thông vận tải, các công trình văn hoá, giáo dục, y tế... vừa được khôi phục và phát triển. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965 và năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4%. Sản lượng lúa năm 1973 đạt khoảng 5 triệu tấn; đến năm 1974, dù bị thiệt hại do thiên tai gây ra, sản lượng lúa vẫn đạt 4,8 triệu tấn. Giá trị tổng sản lượng công nghề và thủ công nghề năm 1974 tăng 15% so với năm 1973. Nhiều bến cảng, tuyến đường được sửa chữa và xây dựng thêm. Đến giữa năm 1973, về cơ bản, chúng ta vừa hoàn thành chuyện tháo gỡ bm mìn, thủy lôi trên biển, trên sông, bảo đảm chuyện đi lại bình thường.
Tiềm lực tất cả mặt của miền Bắc được tăng cường không những có tác dụng ổn định đời sống nhân dân, mà còn là một yếu tố quyết định đảm bảo sự chi viện to lớn và kịp thời (gian) cho chiến trường miền Nam và hai nước bạn.
Ngay sau khi Hiệp định Pari được kí kết, Trung ương chủ trương huy động tất cả các ngành, các các địa phương thực hiện kế hoạch chi viện đột xuất về sức người, sức của cho miền Nam. Đây là đợt động viên nhân, tài, vật lực to lớn không chỉ nhằmm giải phóng hoàn toàn miền Nam, mà còn để xây dựng vùng giải phóng và chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau
khi chiến tranh kết thúc. Để bảo đảm cho trận đánh lớn quyết định, một vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng hệ thống đường giao thông chiến lược có đủ sức vận chuyển lực lượng và các phương tiện chiến tranh.
Trước đây, để chuẩn bị cho "đồng khởi", từ tháng 5-1959, chúng ta vừa xây dựng con đường vận tải dọc theo Tây Trường Sơn (Đường mòn Hồ Chí Minh). Con đường ấy ngày càng vươn dài và mở rộng, đem đến các chiến trường miền Nam sự chi viện ngày càng lớn.
Trước khi có Hiệp định Pari (27-l-1973), Đường Hồ Chí Minh hình thành một mạng lưới, tổng cộng chiều dài là 11.230 km, phần lớn là đường quân sự làm gấp 1. phía Đông Trường Sơn, đoạn từ Đường số 9 trở vào chỉ mới đủ sức tải các loại xe nhỏ, nhiều đoạn chưa được nối liền. Phía Tây Trường Sơn, đường vừa vươn dài đến Tây Nguyên và Campuchia, nhưng chưa đủ năng lực cho các loại xe tăng, pháo, tên lửa hạng nặng qua lại nhanh.
Ngày 17-11-1973, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 243/TTG về chuyện xây dựng, củng cố, mở rộng lớn đường chiến lược Trường Sơn. Đây là một công trình lớn có ý nghĩa về kinh tế và quốc phòng, Nhà nước giao cho quân đội xây dựng toàn bộ. Hàng chục ngàn bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân, kĩ sư vừa vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ do bm đạn địch, thời (gian) tiết, khí hậu gây ra, ngày đêm san đèo, phá núi, chuyển đá đắp đường để xây dựng một hệ thống đường rộng lớn lớn, bảo đảm cho các loại xe vận tải cỡ lớn, các loại xe chiến đấu hạng nặng chạy được hai chiều vớt tốc độ cao trong bốn mùa. Hệ thống đường chiến lược Trường Sơn dài tới 20.000 km, gồm các hệ thống đường trục dọc, trục ngang, đường vượt khẩu, đường vòng tránh... Đường Trường Sơn "là một chiến công chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta... là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng..."
.
Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000 km đường ống dẫn dầu, kéo dài' từ Quảng Trị, qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh và một hệ thống đường thông tin liên lạc hữu tuyến đến tận các chiến trường, bảo đảm liên lạc trực tiếp giữa các chiến trường và từ chiến trường với thủ đô Hà Nội.
Thông qua hệ thống đường vận tải chiến lược Trường Sơn, miền Bắc vừa chuyển vào chiến trường miền Nam một khối lượng rất lớn về lực lượng chiến đấu và vật chất chiến tranh. Trong 2 năm (1973 - 1974), gần 200.000 bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, kĩ thuật...miền Bắc được đưa vào miền Nam. Riêng trong 2 tháng đầu năm 1975, miền Bắc vừa đưa vào miền Nam 57.000 bộ đội. Đó là không kể hơn 25 vạn tấn vật chất 2 cũng được chuyển vào miền Nam từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm. Thế và lực của cách mạng Việt Nam trong những năm sau Hiệp định Pari còn được tạo ra từ trong thắng lợi của cách mạng Lào và Campuchia.
Trước những thắng lợi liên tiếp của các lực lượng cách mạng Lào, đặc biệt là những thắng lợi ở Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, Atôpơ - Xaravan - Cao nguyên Bôlôven, Đường 9 - Nam Lào, đế quốc Mĩ và tay sai buộc phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với lực lượng cách mạng Lào. Hiệp định Viên Chăn về chuyện lập lại hoà bình, thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào được kí kết (21-2-1973). Vùng giải phóng Lào chiếm 3/4 đất đai và 1/3 dân số; trong đó có Cao nguyên Bôlôven và Cánh Đồng Chum. Lực lượng cách mạng Campuchia cũng kiểm soát được 90% đất đai và 5,5 triệu trong tổng số 7 triệu dân. Đó là tình hình chưa từng thấy ở Đông Dương, tạo ra những điều kiện rất thuận lợi cho cách mạng ba nước phát triển nhanh chóng. Đó cũng chính là căn cứ xuất phát cho những chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra vào cuối năm 1974, đầu năm 1975.
II- Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam (từ 4-3 đến 2-5-1975)
1.Chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam
Từ ngày 30-9 đến 8-10-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn phương án hoàn thành sự nghề giải phóng miền Nam. Sau khi phân tích tình hình, Hội nghị nhận định: "Mĩ vừa rút ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy lại miền Nam và dù chúng có thể can thiệp thế nào đi chăng nữa cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền
Sài Gòn" . Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976. K hoạch chiến lược gồm hai bước:
Bước 1 (1975): Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộngkhắp, tạo thời (gian) cơ
Bước 2 (1976): Thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị, với quyết tâm cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, một công chuyện chuẩn bị được tiến hành "thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong thời (gian) gian hai năm 1975 - 1976... " .
Tình hình chiến sự miền Nam cũng chuyển biến có lợi cho ta. Thế và lực của cách mạng miền Nam mạnh thêm nhiều. Cùng với sự ra đời của các quân đoàn, khối chủ lực của các quân khu phát triển nhanh chóng. Thời cơ chiến lược đang phát triển nhanh chóng đến độ chín muồi. Sau cuộc họp tháng 10-1974, Bộ Chính trị thấy nên phải có thêm thời (gian) gian đánh giá tình hình kĩ hơn, xây dựng kế hoạch đầy đủ hơn để đi tới hạ quyết tâm chiến lược có cơ sở khoa học, bảo đảm chắc thắng. Vì vậy Bộ Chính trị quyết định triệu tập Hội nghị mở rộng lớn từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975. Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình, Hội nghị Bộ Chính trị khẳng định: "Chúng ta đang đứng trước thời (gian) cơ chiến lược lớn: Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời (gian) cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam để tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc" . Bộ Chính trị hạ quyết tâm: "Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền trong thời (gian) gian 1975 - 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị tất cả mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiên hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam " .
Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị nhấn mạnh: Cả năm 1975 là thời (gian) cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời (gian) cơ, phong trào chính trị thúc đẩy thời (gian) cơ, tình hình thế giới và nội bộ nước Mĩ là thời (gian) cơ... do đó nên phải khẩn trương, phải đánh nhanh hơn, nếu vừa có thời (gian) cơ mà không kịp thời (gian) phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn với dân tộc.
Kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976 là một kế hoạch lớn được chuẩn bị công phu từ giữa năm 1973 qua 8 lần dự thảo của Bộ Tổng Tham mưu. Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975 - - 1976, Bộ Chính trị còn thông qua một phương án khác cực kì quan trọng: Nếu thời (gian) cơ đến vào đầu hay cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị (10-1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng lớn (l-1975) thể hiện tư duy cách mạng khoa học và sáng tạo, đưa quân và dân ta đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
2- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực trên cả hai miền đất nước, cuộc Tổng tiến công chiến lược của ta mở đầu từ 4-3-1975, diễn ra liên tục trong 55 ngày đêm, trên toàn chiến trường miền Nam; trong đó nổi bật là ba đòn chiến lược: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được mang tên chiến dịch Hồ
Chí Minh .(Gần đây, giới nghiên cứu Lịch sử quân sự đưa ra một quan điểm mới: Cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975 bao gồm ba đòn tiến công chiến lược: Đòn tiến công giải phóng Tây Nguyên, đòn tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng, đòn tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Cả ba đòn đều có ý nghĩa chiến lược mang tính quyết định. Đòn tiến công giải phóng Tây
Nguyên là đòn khỏi đầu, đưa tới sự tan rã và sụp đổ về chiến lược của địch, tạo thời (gian) cơ cho ta giành thắng lợi trong năm 1975; đòn tiến công Huế - Đà Nẵng là đòn trực tiếp đánh bại âm mưu co cụm chiến lược của địch, lũy phần làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng có lợi hoàn toàn cho ta, tạo điều kiện chiến thắng cho cuộc Tổng tiến công; đòn tiến công giải phóng Sài Gòn- Gia Định là cuộc hội quân lớn đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch.
* Chiến dịch Tây Nguyên (từ 10-3 đến 24-3-1975)
Tây Nguyên là một chiến trường cơ động có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Từ chiến trường này, sẽ có nhiều lợi thế phát triển xuống phía nam theo Đường số 14, hay phát triển sang hướng đông theo các trục Đường 19, 7 và 21. Ở Tây Nguyên, địch có 1 sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động, 4 thiết đoàn xe tăng và thiết giáp. Do đánh giá sai, phán đoán sai ý đồ của ta,
chúng cho rằng năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã và thành phố; và nếu có đánh, thì cũng đánh ở phía Bắc Tây Nguyên. Vì vậy, địch tập trung lực lượng giữ Plâycu, Kon Tum, còn Đắc Lắc, trong đó có thị xã Buôn Ma Thuột thì sơ hở; càng vào sâu phía trong thị xã, lực lượng càng mỏng. Xuất phát từ tình hình trên, ý định ban đầu của Bộ Chính trị chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đến lúc này vừa trở thành một quyết định dứt khoát. Đánh Tây Nguyên, ta chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tiến cộng chiến lược chủ yếu, mục tiêu tiến công đầu tiên là Buôn Ma Thuột; hướng phát triển tiếp theo là phía đông. Sử dụng lực lượng cũng như cách đánh phải mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, nghi binh tốt, hướng sự chú ý của địch vào Bắc Tây Nguyên và Trị - Thiên.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ Trung ương, ngày 4-3, ta tiến công tiêu diệt một số vị trí địch, cắt đứt Đường số 19 ở An Khê, đánh nghi binh ở Plâycu, Kon Tum, để tạo thế cho chiến dịch. Buôn Ma Thuột vừa sơ hở lại càng sơ hở.
Trong lúc Quân đoàn II ngụy ra sức chuẩn bị đối phó với chủ lực ta ở Bắc Tây Nguyên, thì vào lúc 1 giờ 55 phút ngày 10-3- 1975, quân ta tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, mở đầu giành thắng lợi hoàn toàn. Đòn tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng gồm ba chiến dịch diễn ra đồng thời (gian) và kế tiếp nhau; đó là: chiến dịch Trị - Thiên - Huế, chiến dịch Nam - Ngãi và chiến dịch Đà Nẵng.
Chiến dịch Tây Nguyên, cũng là mở cửa đột phá cho cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975. Ngày 11-3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã.
Ngày 12-3, quân ngụy tập trung lực lượng tổ chức phản công chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột, nhưng đều bị quân ta đánh tan tác. Toàn bộ tuyến phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển. Quân ngụy hoang mang mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.
Ngày 14-3, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút khỏi Plâycu, Kon Tum, triển khai lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuột. Các đơn vị còn lại sẽ rút về Tuy Hoà (Phú Yên). Ở đó, chúng sẽ tập hợp, củng cố lực lượng tiến hành một chiến dịch chiếm lại Buôn Ma Thuột.
Ngày 16-3, quân ta được lệnh truy kích địch rút chạy theo Đường số 7. Mờ sáng hôm sau, một đơn vị vừa nhanh chóng băng rừng ra cắt Đường số 7, chặn địch ở đông Phú Bổn, tiêu diệt địch và đánh xuống Củng Sơn. Ngày 24-3, quân ta tiến vào thị xã Củng Sơn, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở đây.
Một bộ phận khác phối hợp với bộ đội địa phương giải phóng các tỉnh miền Trung. Tây Nguyên rộng lớn lớn gồm 5 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Đặc Lắc và Quảng Đức), với hơn 60 vạn dân được hoàn toàn giải phóng. Hệ thống bố trí chiến lược của Mĩ - ngụy ở miền Nam đứng trước nguy cơ bị chia cắt làm đôi. Tuyến phòng ngự của địch ở ven biển bị uy hiếp trực tiếp.
Chiến thắng Tây Nguyên vừa chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước sang giai đoạn mới: Từ cuộc tiến công chiến lược phát triển thành cuộc Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
* Chiến dịch Huế- Đà Nẵng (từ 21-3 đến 29-3-1975)
Ngày 18-3, trong lúc chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra và giành được thắng lợi to lớn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, không chờ đến năm 1976 .
Để thực hiện quyết tâm ấy, theo đề nghị của Quân uỷ Trung ương, hướng chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Trước mắt, Trị - Thiên - Đà Nẵng là hướng chiến lược quan trọng. Phương châm chiến dịch là Táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng. Phối hợp với Tây Nguyên, tại Mặt trận Trị - Thiên - Huế, quân ta cũng đẩy mạnh các hoạt động phối hợp. Từ ngày 5-3 đến 20-3, Quân khu V và Quân khu Trị - Thiên - Huế vừa làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng địch ở vùng giáp ranh và đồng bằng, giải phóng phần còn lại của tỉnh Quảng Trị (19-3) và các quận lị Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Trà, Trà Bồng thuộc Quảng Đà - Nam Quảng Ngãi, tạo thành thế uy hiếp Huế - Đà Nẵng. Từ ngày 21 đến ngày 26-3, quân ta tiến công chia cắt Huế với Đà Nẵng, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh số 1 , liên đoàn biệt động quân..., giải phóng thành phố Huế (25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên (26-3). Cùng thời (gian) gian này, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kì (24-3), Quảng Ngãi (25-3), Chu Lai (26-3), tạo thành thế uy hiếp Đà Nẵng từ phía Nam.
Sau khi đánh chiếm thị xã Tam Kì và thành phố Huế, các cánh quân của ta từ Thừa Thiên và Quảng Nam nhanh chóng cơ động, thần tốc, táo bạo, đồng loạt tiến công, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, nhưng lại là căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ - ngụy, rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ngụy thất trận từ các nơi dồn về trong thành phố trở nên hỗn loạn, không còn khả năng chiến đấu.
Sáng 29-3, từ các hướng, quân ta đồng loạt tiến công vào thành phố. Buổi chiều cùng ngày, quân ta đánh chiếm toàn bộ các mục tiêu quan trọng trong thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Kết hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng địa phương nổi dậy diệt ác phá thế kìm kẹp, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng vào lúc 17 giờ ngày 29-3-1975. Cùng thời (gian) gian với chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, từ cuối tháng 3 dầu tháng 4-1975, quân và dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và ở một số tỉnh thuộc Nam Bộ cũng nổi dậy giành quyền làm chủ. Từ ngày 14 đến 29-4, các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (do quân ngụy Sài Gòn chốt giữ) lần lượt được giải phóng.
Tiếp theo chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Huế - Đà Nẵng vừa góp phần làm thay đổi hẳn so sánh về thế và lực giữa ta và địch. Lực lượng giảm xuống còn một nửa (từ 4 quân đoàn chủ lực, chỉ còn lại 2 quân đoàn: III và IV). Ngược lại, lực lượng cách mạng miền Nam được giữ vững và bổ sung, được trang bị đầy đủ, hoàn toàn cơ động và có dự trữ dồi dào.
Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng triệu tập một phiên họp lịch sử. Bộ Chính trị khẳng định: "Cuộc tiến công chiến lược của ta bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới vừa đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam" 1. Do đó, phải "Tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa" . cùng ngày, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương, do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị làm Phó Chủ tịch. Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp, nêu rõ: "Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những vừa bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời (gian) cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch vừa chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta vừa bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện thống nhất Tổ quốc" .
Với cuộc họp ngày 31-3-1975 của Bộ Chính trị, số phận của ngụy quyền Sài Gòn vừa được định đoạt.
* Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được mang tên "chiến dịch Hồ Chí Minh " (từ 2-4 đến 30-4-1975)
Sài Gòn là một thành phố lớn nhất ở miền Nam, lại là sào huyệt cuối cùng của một kẻ địch hết sức ngoan cố. Do vậy, chúng ta không thể chủ quan coi thường địch; chủ trương tập trung binh lực lớn cho chiến dịch có tính quyết định này. Phương châm của chiến dịch là Thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng. Khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng! " vừa biến thành hiện thực ở thời (gian) điểm sôi động nhất này. Ngay từ những ngày đầu tháng 4-1975, trên tất cả các nẻo đường của đất nước, đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt đều hết sức nhộn nhịp vì người và xe. Các loại máy bay vận tải, máy bay lên thẳng cũng được sử dụng để chở quân, chở đạn dược vào chiến trường trọng điểm. Hầu như toàn bộ lực lượng vận tải trên miền Bắc đều được huy động trong một chiến dịch chi viện lớn nhất từ trước tới nay.
Tại thành phố Sài Gòn lúc đó, thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ (12-4-1975), lực lượng cán bộ ở nội đô và ở vùng ven được tăng cường: trong nội thành, có gần 1.000 đảng viên và đoàn viên, ngoài ra còn hàng nghìn quần chúng nòng cốt và tích cực... Ngoài 3.345 dân quân, du kích, còn có 233 tự vệ mật. Bộ đội tập trung của thành có 2 trung đoàn và 5 tiểu đoàn; mỗi huyện cũng có từ 1 đến 2 đại đội; có 6 trung đoàn đặc công vừa ém sẵn các vị trí trong thành phố và các vùng ven... Để đảm bảo cho chiến dịch toàn thắng, đồng thời (gian) bảo vệ được an toàn tính mạng của nhân dân và các công trình văn hoá, nghệ thuật...trong thành phố, chúng ta chủ trương đánh trúng vào 5 mục tiêu quan trọng nhất: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Tổng Nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô và Sân bay Tân Sơn Nhất. Các đơn vị lớn của ta trên các hướng tiến vào áp sát thành phố Sài Gòn - Gia Định vừa lần lượt tiêu diệt các căn cứ phòng thủ từ xa của địch. Trong các trận đánh ấy, quan trọng nhất là trận đánh thị xã Xuân Lộc (Long Khánh), một vị trí án ngữ cửa ngõ phía đông thành phố Sài Gòn - Gia Định, nhằm tạo thế có lợi mở đường tiến công Sài Gòn.
Sáng 9-4-1975, quân ta nổ súng tiến công Xuân Lộc và tiểu khu Long Khánh. Cuộc chiến đấu diễn ra rất gay go, quyết liệt. Ngày 16-4, căn cứ phòng thủ của địch ở Phan Rang bị phá vỡ, tỉnh Ninh Thuận được giải phóng. Thừa thắng, quân ta kết hợp với lực lượng quần chúng nổi dậy lần lượt giải phóng tỉnh Bình Thuận với thị xã Phan Thiết (19-4)... Quân ngụy lâm vào tình trạng nguy ngập thực sự. Sự sống còn chỉ có thể tính từng ngày,
từng tuần, không thể tính từng tháng. Ngày 18-4, Tổng thống Mĩ ra lệnh di tản người Mĩ ra khỏi Sài Gòn. Ngày 20-4, quân địch ở Xuân Lộc buộc phải rút chạy, quân ta giải phóng tỉnh Long Khánh.
Chiến thắng Xuân lộc làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở xung quanh Sài Gòn, làm cho tinh thần quân ngụy càng thêm suy sụp.
Ngày 21-4, theo "gợi ý" của Mĩ, Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống, Trần Văn Hương lên thay để có tính chất "hợp hiến", nhưng chính là một bước để chuyển cho Dương Văn Minh, người mà chúng cho rằng ta có thể chấp nhận thương lượng. Đến ngày 26-4, các quân đoàn chủ lực và binh khí kĩ thuật của ta vừa có mặt tại các vị trí tập kết. Cùng ngày, Trần Văn Hương tuyên bố nhường chức Tổng thống cho Dương Văn Minh. Đúng 17 giờ ngày 26-4, quân ta nổ súng tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở phía đông Sài Gòn, chính thức mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ đó đến ngày 28-4, các binh đoàn chủ lực của ta lần lượt tiêu diệt các căn cứ phòng thủ vòng ngoài của địch, hình thành thế bao vây áp sát thành phố Sài Gòn – Gia Định. Cùng thời (gian) gian này, các đơn vị đặc công, biệt động và lực lượng vũ trang nội thành làm nhiệm vụ đánh địch, giữ các cấu vào thành phố, dẫn đường cho các binh đoàn đánh chiếm các mục tiêu vừa định; đồng thời (gian) hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phối hợp với các cuộc tiến công quân sự. Giữa lúc các cánh quân lớn của ta đang rầm rập tiến về Sài Gòn, vào lúc 17 giờ ngày 28-4, một bay đội mang tên "Quyết Thắng", do Nguyễn Thành Trung chỉ huy, lái 5 chiếc máy bay A37 ném bm xuống Sân bay Tân Sơn Nhất, gây nỗi kinh hoàng trong quân ngụy. Đêm 28 rạng 29-4-1975, quân ta thực hành tổng tiến công trên toàn mặt trận. Sau một ngày chiến đấu, quân ta phá vỡ và chiếm được các căn cứ vòng ngoài Sài Gòn - Gia Định, ngăn chặn và tiêu diệt các sư đoàn chủ lực ngụy, không cho chúng co về, đánh chiếm các bàn đạp để tiến vào nội thành. Ngày 30-4, các binh đoàn chủ lực của ta tiến hành đột kích, kết hợp với các lực lượng bên trong, đánh chiếm các cơ quan trọng yếu trong guồng máy chiến tranh của ngụy quyền Sài Gòn.
Trước sự thất bại không tránh khỏi, Tổng thống ngụy Dương Văn Minh xin "ngừng bắn, điều đình để giao chính quyền". Quân và dân ta kiên quyết thi hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Bộ chỉ huy Chiến dịch: "Tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch, tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh thành phố, tước vũ khí quân địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để tất cả sự chống cự của địch".
Vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 30-4, binh đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn II tiến vào Dinh Độc Lập, bắt tại chỗ toàn bộ ngụy quyền trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, cờ cách mạng tung bay trên nóc Phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trên đà chiến thắng, từ ngày 30-4 đến ngày 1-5-1975, đồng bào và chiến sĩ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt tiến công và nổi dậy, giành quyền làm chủ. Toàn bộ lãnh thổ trên đất liên của miền Nam được giải phóng. Cùng với đất liền, ngày 30-4, các chiến sĩ yêu nước bị địch giam giữ tại nhà tù Côn Đảo nổi dậy giải phóng đảo. Ngày 2-5- 1975. Quân Giải phóng cùng nhân dân tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ hoàn toàn đảo Phú Quốc.
Trải qua gần hai tháng chiến đấu vô cùng anh dũng và sáng tạo của quân và dân ta, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vừa toàn thắng. Chúng ta vừa loại khỏi vòng chiến đấu 1,1 triệu quân ngụy do Mĩ trực tiếp tổ chức, trang bị và chỉ huy, làm tan rã toàn bộ lực lượng phòng vệ dân sự gồm hơn 1 triệu tên; đánh đổ toàn bộ hệ thống ngụy quyền các cấp mà Mĩ vừa dày công xây dựng trong hơn 20 năm. Như vậy, tất cả cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ ở miền Nam nước ta bị quét sạch.
III- Nghiên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975)
1- Nguyên nhân thắng lợi
Trải qua hơn 20 năm, với 5 đời Tổng thống kế tiếp nhau (Aixenhao, Kennơđi, Giônxơn, Níchxơn, Pho) và 4 chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới ("chiến tranh một phía", "chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ", "chiến tranh Việt Nam hoá"), đế quốc Mĩ vừa huy động một khối lượng rất lớn về người và của vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Vào thời (gian) điểm cao nhất, chúng sử dụng 55 vạn quân viễn chinh, 7 vạn quân đồng minh, 110 vạn quân ngụy; ném xuống hai miền Nam - Bắc Việt Nam 7,8 triệu tấn bm đạn; tiêu tốn khoảng 676 tỉ đôla và nếu tính cả chi phí gián tiếp thì con số đó lên tới 920 tỉ đôla..., nhưng cuối cùng chúng vừa phải chấp nhận thất bại thảm hại. Nhân dân ta vừa giành được thắng lợi to lớn và trọn vẹn.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan tạo nên. Trước hết, thắng lợi đó là kết quả của đường lối chính trị - quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, sáng tạo do Đảng ta đề ra.
Thấm nhuần quan điểm cách mạng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng và mở rộng lớn khối đoàn kết toàn dân. Việc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9-1955), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (12-1960) và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam (4-1968) là những biểu hiện cụ thể chứng minh điều ấy.
Luôn giương cao và kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một trong những tư tưởng cơ bản, có tính xuyên suốt của Đảng ta. Tư tưởng này được thể hiện một cách sinh động ở đường lối thực hiện đồng thời (gian) hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai chiến lược cách mạng có quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Với đường lối đó, cách mạng nước ta vừa kết hợp được sức mạnh chiến đấu của tiền tuyến lớn với sức mạnh của hậu phương lớn; kết hợp được cuộc chiến đấu của nhân dân ta với cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng trên thế giới.
Đường lối chính trị - quân sự đúng đắn còn thể hiện ở chỗ, Đảng ta biết tạo ra sức mạnh to lớn để đánh Mĩ và thắng Mĩ. Sức mạnh tổng hợp này được tạo thành bởi sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh ba dòng thác cách mạng của thời (gian) đại, sức mạnh của tiến công kết hợp với sức mạnh của nổi dậy, của đánh lớn , đánh vừa và đánh nhỏ . . . Trong quá trình lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam, Đảng ta luôn thực hành được tư tưởng chiến lược tiến công theo phương châm đánh lùi địch từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ chúng hoàn toàn.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, truyền thống đó được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh to lớn cho quân và dân ta lần lượt đánh bại từng chiến lược chiến tranh của Mĩ - ngụy và cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn. Sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Trải qua 20 năm thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiềm lực kinh tế, quốc phòng miền Bắc không ngừng tăng lên; sự nhất trí về chính trị tinh thần ngày càng được phát huy cao độ trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Nhờ đó, miền Bắc luôn làm tròn vai trò hậu phương lớn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước còn do chúng ta có sức mạnh của khối đoàn kết chiến đấu ngày càng bền chặt giữa nhân dân ba nước Đông Dương; sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Mĩ.
2- Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước với đỉnh cao là Đại thắng Xuân 1975 vừa chấm dứt tình trạng chiến tranh kéo dài 30 năm trên đất nước ta. Lần đầu tiên sau 117 năm, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Bắc - Nam được sum họp một nhà; non sông nối liền một dải. Cách mạng nước ta từ chỗ thực hiện đồng thời (gian) hai chiến lược vừa chuyển sang thời (gian) kì thực hiện một chiến lược duy nhất, đó là chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Một kỉ nguyên mới được mở ra trong lịch sử dân tộc ta: kỉ nguyên độc lập, thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước có ý nghĩa thời (gian) đại rất sâu sắc. Đây là một đòn giáng mạnh đập tan cuộc phản kích lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ vào các lực lượng cách mạng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phá vỡ phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mĩ hòng ngăn chặn làn sóng cách mạng ở khu vực Đông Nam á, lũy phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Thắng lợi của dân tộc ta vừa chứng minh một chân lí: Trong thời (gian) đại ngày nay, một dân tộc thuộc địa dù nhỏ bé, nhưng nếu biết đoàn kết và quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, có đường lối chính trị - quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, sáng tạo, thì hoàn toàn có khả năng đánh bại tất cả thế lực đế quốc xâm lược. Do đó, nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời (gian) đại sâu sắc".
Nguồn: Sách Lịch sử Việt Nam 1945-2000
NAM, GIÀNH TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC (1973 - 1975)
Bài này nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước từ sau ngày Hiệp định Pari được kí kết đến khi kết thúc thắng lợi hoàn toàn bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
I- Tình hình địch và ta sau Hiệp định Pari.
Sau khi Hiệp định Pari được kí kết, đế quốc Mĩ phải rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu về nước. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Dù vừa thất bại, nhưng chúng vẫn tiếp tục thực hiện Học thuyết Níchxơn, theo đuổi chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Chúng vẫn để lại ở miền Nam Việt Nam khoảng 20.000 cố vấn quân sự đội lết dân sự, lập ra Bộ chỉ huy trá hình, tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự cho ngụy quyền. Với âm mưu duy trì ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, đế quốc
Mĩ và tay sai tìm tất cả cách phá hoại Hiệp định, ngăn cản con đường hoà hợp dân tộc, thống nhất đất nước. Chỉ tính từ 28-1 đến 28-3- 1973, ngụy quyền Thiệu vừa vi phạm ngừng bắn 67.762 vụ 1. Mĩ tuy rút quân, nhưng không mang theo vũ khí, không triệt phá các căn cứ quân sự mà còn đưa nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh trái phép vào miền Nam.
Về phía ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, được Mĩ giúp sức và trang bị, chúng hô hào "7ràn ngập lãnh thổ", tập trung lực lượng tổ chức các cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng. Riêng trong tháng 11-1973, chúng sử dụng 60% chủ lực và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương, mở trên 360 cuộc hành quân lấn chiếm. Trong năm 1973, quân ngụy tiến hành gần 10.000 cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm ở các vùng tranh chấp từ cấp tiểu đoàn trở lên cùng với 350.000 cuộc hành quân cảnh sát - bình định trong vùng chúng kiểm soát. Chúng ra sức củng cố và tăng cường lực lượng quân sự, nhằm làm cho quân ngụy đủ sức đối phó với quân chủ lực của ta trong tất cả tình huống. Trong năm 1973, địch bắt thêm 240.000 lính, thu thập trên 130.000 quân đào, rã ngũ và bị thương, đưa tổng số quân thường trực lên tới 710.000 tên.
Tất cả tình hình trên chứng tỏ những âm mưu đen tối của Mĩ - ngụy đối với miền Nam nước ta vẫn không thay đổi. Chúng vạch ra nhiều kế hoạch quân sự, chính trị, kinh tế như: Kế hoạch cộng đồng tự vệ và phát triển địa phương (1973 -1975), nhằm lấn chiếm toàn bộ vừng giải phóng của ta, lấp lại những "lõm" trong vùng chúng kiếm soát, xoá bỏ trạng thái hai vùng, hai quân đội, hai chính quyền; kế hoạch xây dựng quân ngụy (1974 - 1979) nhằm hiện đại hoá quân đội ngụy; kế hoạch kinh tế hậu chiến (1973 - 1980) nhằm triển khai toàn diện nền kinh tế thực dân mới thuộc Mĩ, làm cho nền kinh tế miền Nam do chúng kiểm soát hơn hẳn nền kinh tế miền Bắc, loại trừ cách mạng miền Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền Nam Việt Nam.
Âm mưu trên của địch được thực hiện trong hoàn cảnh Việt Nam và Đông Dương vừa có nhiều thay đổi không có lợi cho chúng. Về quân sự, quân viễn chinh vừa rút về nước, viện trợ của Mĩ cho ngụy giảm dần, từ 1.614 triệu đôla năm 1972-1973, rút xuống còn 1.026 triệu đôla năm 1973-1974 và 701 triệu đôla năm 1974-1975. Về chính trị ngụy quyền đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trong khi đó, nước Mĩ chìm ngập trong cuộc "khủng hoảng lòng tin ", kinh tế suy thoái nạn lạm phát và thất nghề tăng, xã hội bị rối loạn...
Về phía ta, từ sau ngày Hiệp định Pari có hiệu lực, Trung ương Đảng dự kiến có hai khả năng: hay là hoà bình được duy trì, Hiệp định được thực hiện từng bước, phong trào cách mạng miền Nam có điều kiện phát triển những bước mới; hay là chiến tranh sẽ tiếp tục. Chúng ta ra sức tranh thủ khả năng thứ nhất và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năng thứ hai.
Trong 3 tháng đầu chuyển sang cách đấu tranh chính trị theo pháp lí của Hiệp định Pari, có nơi, có lúc chúng ta quá nhấn mạnh đến khả năng hoà bình, chưa nhận rõ âm mưu của địch. Do ta mắc khuyết điểm và sơ hở trong chủ trương đối phó với hành động phá hoại Hiệp định Pari của địch, nên chúng vừa lấn chiếm và bình định được nhiều vùng, khống chế lại dân.
Riêng trong năm 1973, trên toàn miền Nam, địch đóng thêm 500 đồn bết, chiếm thêm 70 xã, 740 ấp kiểm soát thêm 650.000 dân. Trước tình hình trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 21 (từ 29-6 đến 6-7-1973) và ra Nghị quyết mang tên: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới". Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: Chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari. Hội nghị nhấn mạnh vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển lực lượng cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết, vừa cơ bản trong giai đoạn mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 chỉ rõ: "Con đường cách mạng của miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời (gian) cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên..." .
Được Nghị quyết Trung ương soi sáng, những hạn chế, thiếu sót trong thời (gian) gian đầu sau Hiệp định Pari được khắc phục. Ngày 15-10-1973, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ra Mệnh lệnh đánh trả hành động chiến tranh của Mĩ - ngụy. Bản Mệnh lệnh nêu rõ quân và dân miền Nam phải nêu cao cảnh giác, kiên quyết đánh trả đích đáng những hành động chiến tranh của Mĩ - ngụy, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, buộc đối phương phải nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định Pari.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng và Mệnh lệnh của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, Quân Giải phóng liên tiếp mở các cuộc tiến công, phản công cục bộ, kết hợp với các cuộc nổi dậy của nhân dân trong vùng địch kiểm soát, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" của địch, giữ vững và mở rộng lớn vùng giải phóng, lũy phần làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường miền Nam có lợi cho ta. Đến giữa năm 1974, trên toàn miền Nam, ta vừa xoá được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp, với 1.150.000 dân .
Bước vào Đông - Xuân 1974 - 1975, sau khi tiêu diệt nhiều cụm cứ điểm, căn cứ quân sự của địch, quân ta phát triển thế chiến lược tiến công trên khắp chiến trường Nam Bộ, hướng chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.
Ngày 13-12-1974, quân ta tiến công chi khu quân sự Bù Đăng, yếu khu Bù Na, hệ thống đồn bốt trên Đường 14, mở đầu chiến dịch Đường 14 - Phước Long. Mục đích của chiến dịch nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tạo thêm bàn đạp tiến công xung quanh Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Trải qua 25 ngày đêm chiến đấu liên tục (từ 13-12-1974 đến 6-1 - 1975), Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long kết thúc thắng lợi: Giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long và đoạn đường 14 dài trên 100 km với hơn 500.000 dân; loại khỏi vòng chiến đấu 1.160 tên địch, 1.000 phòng vệ dân sự ra trình diện; phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh... Mất tỉnh Phước Long, quân ngụy phản ứng một cách tuyệt cú vọng. Tất cả các cánh quân ngụy lên ứng cứu đều bị đánh lui. Chiến thắng Phước Long mang ý nghĩa một đòn trinh sát chiến lược rất quan trọng. Đây là lần đầu tiên ở miền Nam, một tỉnh nằm gần Sài Gòn được hoàn toàn giải phóng. Vùng căn cứ của ta ở miền Đông Nam Bộ được mở rộng.
Chiến thắng Phước Long đánh dấu một bước suy sụp mới của quân ngụy. Đội quân này không còn khả năng giải toả với quy mô lớn để chiếm lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng bị ta đánh chiếm, ngay cả trên tuyến phòng thủ vành ngoài Sài Gòn - Gia Định. Nó còn chứng tỏ Mĩ không có khả năng can thiệp trở lại bằng quân sự vào miền Nam, khi người phát ngôn của Nhà Trắng tuyên bố: "Tổng thống Pho không có ý vi phạm những điều cơm chỉ (của Quốc hội) về chuyện sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kì tại Việt Nam" . Chiến thắng Phước Long cũng cho ta thấy: Nếu quân ta đánh mạnh, đánh lớn, chắc chắn địch không có khả năng chống đỡ.
Trong khi đó, tại các vùng giải phóng, cùng với cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương, nhân dân ta ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, tăng thêm nguồn dự trữ cho tiền tuyến. Riêng nhân dân Khu IX (miền Tây Nam Bộ), trong năm 1973 vừa đóng lũy 1,7 triệu giạ lúa (tương đương 34.000 tấn) và 6 tháng đầu năm 1974 đóng lũy được 2,4 triệu giạ (48.000 tấn). Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghề và các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế... cũng được đẩy mạnh.
Trong khi thế và lực của cách mạng miền Nam đang phát triển đi lên, tại hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta hăng hái lao động và công tác, nhanh chóng khắc phục hậu quả nặng nề do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ gây ra. Chỉ sau 2 năm (1973 - 1974), hầu hết các cơ sở kinh tế, các hệ thống thuỷ nông, giao thông vận tải, các công trình văn hoá, giáo dục, y tế... vừa được khôi phục và phát triển. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965 và năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4%. Sản lượng lúa năm 1973 đạt khoảng 5 triệu tấn; đến năm 1974, dù bị thiệt hại do thiên tai gây ra, sản lượng lúa vẫn đạt 4,8 triệu tấn. Giá trị tổng sản lượng công nghề và thủ công nghề năm 1974 tăng 15% so với năm 1973. Nhiều bến cảng, tuyến đường được sửa chữa và xây dựng thêm. Đến giữa năm 1973, về cơ bản, chúng ta vừa hoàn thành chuyện tháo gỡ bm mìn, thủy lôi trên biển, trên sông, bảo đảm chuyện đi lại bình thường.
Tiềm lực tất cả mặt của miền Bắc được tăng cường không những có tác dụng ổn định đời sống nhân dân, mà còn là một yếu tố quyết định đảm bảo sự chi viện to lớn và kịp thời (gian) cho chiến trường miền Nam và hai nước bạn.
Ngay sau khi Hiệp định Pari được kí kết, Trung ương chủ trương huy động tất cả các ngành, các các địa phương thực hiện kế hoạch chi viện đột xuất về sức người, sức của cho miền Nam. Đây là đợt động viên nhân, tài, vật lực to lớn không chỉ nhằmm giải phóng hoàn toàn miền Nam, mà còn để xây dựng vùng giải phóng và chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau
khi chiến tranh kết thúc. Để bảo đảm cho trận đánh lớn quyết định, một vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng hệ thống đường giao thông chiến lược có đủ sức vận chuyển lực lượng và các phương tiện chiến tranh.
Trước đây, để chuẩn bị cho "đồng khởi", từ tháng 5-1959, chúng ta vừa xây dựng con đường vận tải dọc theo Tây Trường Sơn (Đường mòn Hồ Chí Minh). Con đường ấy ngày càng vươn dài và mở rộng, đem đến các chiến trường miền Nam sự chi viện ngày càng lớn.
Trước khi có Hiệp định Pari (27-l-1973), Đường Hồ Chí Minh hình thành một mạng lưới, tổng cộng chiều dài là 11.230 km, phần lớn là đường quân sự làm gấp 1. phía Đông Trường Sơn, đoạn từ Đường số 9 trở vào chỉ mới đủ sức tải các loại xe nhỏ, nhiều đoạn chưa được nối liền. Phía Tây Trường Sơn, đường vừa vươn dài đến Tây Nguyên và Campuchia, nhưng chưa đủ năng lực cho các loại xe tăng, pháo, tên lửa hạng nặng qua lại nhanh.
Ngày 17-11-1973, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 243/TTG về chuyện xây dựng, củng cố, mở rộng lớn đường chiến lược Trường Sơn. Đây là một công trình lớn có ý nghĩa về kinh tế và quốc phòng, Nhà nước giao cho quân đội xây dựng toàn bộ. Hàng chục ngàn bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân, kĩ sư vừa vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ do bm đạn địch, thời (gian) tiết, khí hậu gây ra, ngày đêm san đèo, phá núi, chuyển đá đắp đường để xây dựng một hệ thống đường rộng lớn lớn, bảo đảm cho các loại xe vận tải cỡ lớn, các loại xe chiến đấu hạng nặng chạy được hai chiều vớt tốc độ cao trong bốn mùa. Hệ thống đường chiến lược Trường Sơn dài tới 20.000 km, gồm các hệ thống đường trục dọc, trục ngang, đường vượt khẩu, đường vòng tránh... Đường Trường Sơn "là một chiến công chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta... là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng..."
.
Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000 km đường ống dẫn dầu, kéo dài' từ Quảng Trị, qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh và một hệ thống đường thông tin liên lạc hữu tuyến đến tận các chiến trường, bảo đảm liên lạc trực tiếp giữa các chiến trường và từ chiến trường với thủ đô Hà Nội.
Thông qua hệ thống đường vận tải chiến lược Trường Sơn, miền Bắc vừa chuyển vào chiến trường miền Nam một khối lượng rất lớn về lực lượng chiến đấu và vật chất chiến tranh. Trong 2 năm (1973 - 1974), gần 200.000 bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, kĩ thuật...miền Bắc được đưa vào miền Nam. Riêng trong 2 tháng đầu năm 1975, miền Bắc vừa đưa vào miền Nam 57.000 bộ đội. Đó là không kể hơn 25 vạn tấn vật chất 2 cũng được chuyển vào miền Nam từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm. Thế và lực của cách mạng Việt Nam trong những năm sau Hiệp định Pari còn được tạo ra từ trong thắng lợi của cách mạng Lào và Campuchia.
Trước những thắng lợi liên tiếp của các lực lượng cách mạng Lào, đặc biệt là những thắng lợi ở Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, Atôpơ - Xaravan - Cao nguyên Bôlôven, Đường 9 - Nam Lào, đế quốc Mĩ và tay sai buộc phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với lực lượng cách mạng Lào. Hiệp định Viên Chăn về chuyện lập lại hoà bình, thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào được kí kết (21-2-1973). Vùng giải phóng Lào chiếm 3/4 đất đai và 1/3 dân số; trong đó có Cao nguyên Bôlôven và Cánh Đồng Chum. Lực lượng cách mạng Campuchia cũng kiểm soát được 90% đất đai và 5,5 triệu trong tổng số 7 triệu dân. Đó là tình hình chưa từng thấy ở Đông Dương, tạo ra những điều kiện rất thuận lợi cho cách mạng ba nước phát triển nhanh chóng. Đó cũng chính là căn cứ xuất phát cho những chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra vào cuối năm 1974, đầu năm 1975.
II- Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam (từ 4-3 đến 2-5-1975)
1.Chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam
Từ ngày 30-9 đến 8-10-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn phương án hoàn thành sự nghề giải phóng miền Nam. Sau khi phân tích tình hình, Hội nghị nhận định: "Mĩ vừa rút ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy lại miền Nam và dù chúng có thể can thiệp thế nào đi chăng nữa cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền
Sài Gòn" . Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976. K hoạch chiến lược gồm hai bước:
Bước 1 (1975): Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộngkhắp, tạo thời (gian) cơ
Bước 2 (1976): Thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị, với quyết tâm cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, một công chuyện chuẩn bị được tiến hành "thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong thời (gian) gian hai năm 1975 - 1976... " .
Tình hình chiến sự miền Nam cũng chuyển biến có lợi cho ta. Thế và lực của cách mạng miền Nam mạnh thêm nhiều. Cùng với sự ra đời của các quân đoàn, khối chủ lực của các quân khu phát triển nhanh chóng. Thời cơ chiến lược đang phát triển nhanh chóng đến độ chín muồi. Sau cuộc họp tháng 10-1974, Bộ Chính trị thấy nên phải có thêm thời (gian) gian đánh giá tình hình kĩ hơn, xây dựng kế hoạch đầy đủ hơn để đi tới hạ quyết tâm chiến lược có cơ sở khoa học, bảo đảm chắc thắng. Vì vậy Bộ Chính trị quyết định triệu tập Hội nghị mở rộng lớn từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975. Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình, Hội nghị Bộ Chính trị khẳng định: "Chúng ta đang đứng trước thời (gian) cơ chiến lược lớn: Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời (gian) cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam để tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc" . Bộ Chính trị hạ quyết tâm: "Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền trong thời (gian) gian 1975 - 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị tất cả mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiên hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam " .
Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị nhấn mạnh: Cả năm 1975 là thời (gian) cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời (gian) cơ, phong trào chính trị thúc đẩy thời (gian) cơ, tình hình thế giới và nội bộ nước Mĩ là thời (gian) cơ... do đó nên phải khẩn trương, phải đánh nhanh hơn, nếu vừa có thời (gian) cơ mà không kịp thời (gian) phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn với dân tộc.
Kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976 là một kế hoạch lớn được chuẩn bị công phu từ giữa năm 1973 qua 8 lần dự thảo của Bộ Tổng Tham mưu. Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975 - - 1976, Bộ Chính trị còn thông qua một phương án khác cực kì quan trọng: Nếu thời (gian) cơ đến vào đầu hay cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị (10-1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng lớn (l-1975) thể hiện tư duy cách mạng khoa học và sáng tạo, đưa quân và dân ta đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
2- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực trên cả hai miền đất nước, cuộc Tổng tiến công chiến lược của ta mở đầu từ 4-3-1975, diễn ra liên tục trong 55 ngày đêm, trên toàn chiến trường miền Nam; trong đó nổi bật là ba đòn chiến lược: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được mang tên chiến dịch Hồ
Chí Minh .(Gần đây, giới nghiên cứu Lịch sử quân sự đưa ra một quan điểm mới: Cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975 bao gồm ba đòn tiến công chiến lược: Đòn tiến công giải phóng Tây Nguyên, đòn tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng, đòn tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Cả ba đòn đều có ý nghĩa chiến lược mang tính quyết định. Đòn tiến công giải phóng Tây
Nguyên là đòn khỏi đầu, đưa tới sự tan rã và sụp đổ về chiến lược của địch, tạo thời (gian) cơ cho ta giành thắng lợi trong năm 1975; đòn tiến công Huế - Đà Nẵng là đòn trực tiếp đánh bại âm mưu co cụm chiến lược của địch, lũy phần làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng có lợi hoàn toàn cho ta, tạo điều kiện chiến thắng cho cuộc Tổng tiến công; đòn tiến công giải phóng Sài Gòn- Gia Định là cuộc hội quân lớn đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch.
* Chiến dịch Tây Nguyên (từ 10-3 đến 24-3-1975)
Tây Nguyên là một chiến trường cơ động có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Từ chiến trường này, sẽ có nhiều lợi thế phát triển xuống phía nam theo Đường số 14, hay phát triển sang hướng đông theo các trục Đường 19, 7 và 21. Ở Tây Nguyên, địch có 1 sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động, 4 thiết đoàn xe tăng và thiết giáp. Do đánh giá sai, phán đoán sai ý đồ của ta,
chúng cho rằng năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã và thành phố; và nếu có đánh, thì cũng đánh ở phía Bắc Tây Nguyên. Vì vậy, địch tập trung lực lượng giữ Plâycu, Kon Tum, còn Đắc Lắc, trong đó có thị xã Buôn Ma Thuột thì sơ hở; càng vào sâu phía trong thị xã, lực lượng càng mỏng. Xuất phát từ tình hình trên, ý định ban đầu của Bộ Chính trị chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đến lúc này vừa trở thành một quyết định dứt khoát. Đánh Tây Nguyên, ta chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tiến cộng chiến lược chủ yếu, mục tiêu tiến công đầu tiên là Buôn Ma Thuột; hướng phát triển tiếp theo là phía đông. Sử dụng lực lượng cũng như cách đánh phải mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, nghi binh tốt, hướng sự chú ý của địch vào Bắc Tây Nguyên và Trị - Thiên.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ Trung ương, ngày 4-3, ta tiến công tiêu diệt một số vị trí địch, cắt đứt Đường số 19 ở An Khê, đánh nghi binh ở Plâycu, Kon Tum, để tạo thế cho chiến dịch. Buôn Ma Thuột vừa sơ hở lại càng sơ hở.
Trong lúc Quân đoàn II ngụy ra sức chuẩn bị đối phó với chủ lực ta ở Bắc Tây Nguyên, thì vào lúc 1 giờ 55 phút ngày 10-3- 1975, quân ta tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, mở đầu giành thắng lợi hoàn toàn. Đòn tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng gồm ba chiến dịch diễn ra đồng thời (gian) và kế tiếp nhau; đó là: chiến dịch Trị - Thiên - Huế, chiến dịch Nam - Ngãi và chiến dịch Đà Nẵng.
Chiến dịch Tây Nguyên, cũng là mở cửa đột phá cho cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975. Ngày 11-3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã.
Ngày 12-3, quân ngụy tập trung lực lượng tổ chức phản công chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột, nhưng đều bị quân ta đánh tan tác. Toàn bộ tuyến phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển. Quân ngụy hoang mang mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.
Ngày 14-3, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút khỏi Plâycu, Kon Tum, triển khai lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuột. Các đơn vị còn lại sẽ rút về Tuy Hoà (Phú Yên). Ở đó, chúng sẽ tập hợp, củng cố lực lượng tiến hành một chiến dịch chiếm lại Buôn Ma Thuột.
Ngày 16-3, quân ta được lệnh truy kích địch rút chạy theo Đường số 7. Mờ sáng hôm sau, một đơn vị vừa nhanh chóng băng rừng ra cắt Đường số 7, chặn địch ở đông Phú Bổn, tiêu diệt địch và đánh xuống Củng Sơn. Ngày 24-3, quân ta tiến vào thị xã Củng Sơn, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở đây.
Một bộ phận khác phối hợp với bộ đội địa phương giải phóng các tỉnh miền Trung. Tây Nguyên rộng lớn lớn gồm 5 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Đặc Lắc và Quảng Đức), với hơn 60 vạn dân được hoàn toàn giải phóng. Hệ thống bố trí chiến lược của Mĩ - ngụy ở miền Nam đứng trước nguy cơ bị chia cắt làm đôi. Tuyến phòng ngự của địch ở ven biển bị uy hiếp trực tiếp.
Chiến thắng Tây Nguyên vừa chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước sang giai đoạn mới: Từ cuộc tiến công chiến lược phát triển thành cuộc Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
* Chiến dịch Huế- Đà Nẵng (từ 21-3 đến 29-3-1975)
Ngày 18-3, trong lúc chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra và giành được thắng lợi to lớn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, không chờ đến năm 1976 .
Để thực hiện quyết tâm ấy, theo đề nghị của Quân uỷ Trung ương, hướng chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Trước mắt, Trị - Thiên - Đà Nẵng là hướng chiến lược quan trọng. Phương châm chiến dịch là Táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng. Phối hợp với Tây Nguyên, tại Mặt trận Trị - Thiên - Huế, quân ta cũng đẩy mạnh các hoạt động phối hợp. Từ ngày 5-3 đến 20-3, Quân khu V và Quân khu Trị - Thiên - Huế vừa làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng địch ở vùng giáp ranh và đồng bằng, giải phóng phần còn lại của tỉnh Quảng Trị (19-3) và các quận lị Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Trà, Trà Bồng thuộc Quảng Đà - Nam Quảng Ngãi, tạo thành thế uy hiếp Huế - Đà Nẵng. Từ ngày 21 đến ngày 26-3, quân ta tiến công chia cắt Huế với Đà Nẵng, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh số 1 , liên đoàn biệt động quân..., giải phóng thành phố Huế (25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên (26-3). Cùng thời (gian) gian này, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kì (24-3), Quảng Ngãi (25-3), Chu Lai (26-3), tạo thành thế uy hiếp Đà Nẵng từ phía Nam.
Sau khi đánh chiếm thị xã Tam Kì và thành phố Huế, các cánh quân của ta từ Thừa Thiên và Quảng Nam nhanh chóng cơ động, thần tốc, táo bạo, đồng loạt tiến công, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, nhưng lại là căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ - ngụy, rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ngụy thất trận từ các nơi dồn về trong thành phố trở nên hỗn loạn, không còn khả năng chiến đấu.
Sáng 29-3, từ các hướng, quân ta đồng loạt tiến công vào thành phố. Buổi chiều cùng ngày, quân ta đánh chiếm toàn bộ các mục tiêu quan trọng trong thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Kết hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng địa phương nổi dậy diệt ác phá thế kìm kẹp, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng vào lúc 17 giờ ngày 29-3-1975. Cùng thời (gian) gian với chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, từ cuối tháng 3 dầu tháng 4-1975, quân và dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và ở một số tỉnh thuộc Nam Bộ cũng nổi dậy giành quyền làm chủ. Từ ngày 14 đến 29-4, các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (do quân ngụy Sài Gòn chốt giữ) lần lượt được giải phóng.
Tiếp theo chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Huế - Đà Nẵng vừa góp phần làm thay đổi hẳn so sánh về thế và lực giữa ta và địch. Lực lượng giảm xuống còn một nửa (từ 4 quân đoàn chủ lực, chỉ còn lại 2 quân đoàn: III và IV). Ngược lại, lực lượng cách mạng miền Nam được giữ vững và bổ sung, được trang bị đầy đủ, hoàn toàn cơ động và có dự trữ dồi dào.
Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng triệu tập một phiên họp lịch sử. Bộ Chính trị khẳng định: "Cuộc tiến công chiến lược của ta bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới vừa đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam" 1. Do đó, phải "Tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa" . cùng ngày, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương, do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị làm Phó Chủ tịch. Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp, nêu rõ: "Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những vừa bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời (gian) cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch vừa chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta vừa bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện thống nhất Tổ quốc" .
Với cuộc họp ngày 31-3-1975 của Bộ Chính trị, số phận của ngụy quyền Sài Gòn vừa được định đoạt.
* Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được mang tên "chiến dịch Hồ Chí Minh " (từ 2-4 đến 30-4-1975)
Sài Gòn là một thành phố lớn nhất ở miền Nam, lại là sào huyệt cuối cùng của một kẻ địch hết sức ngoan cố. Do vậy, chúng ta không thể chủ quan coi thường địch; chủ trương tập trung binh lực lớn cho chiến dịch có tính quyết định này. Phương châm của chiến dịch là Thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng. Khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng! " vừa biến thành hiện thực ở thời (gian) điểm sôi động nhất này. Ngay từ những ngày đầu tháng 4-1975, trên tất cả các nẻo đường của đất nước, đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt đều hết sức nhộn nhịp vì người và xe. Các loại máy bay vận tải, máy bay lên thẳng cũng được sử dụng để chở quân, chở đạn dược vào chiến trường trọng điểm. Hầu như toàn bộ lực lượng vận tải trên miền Bắc đều được huy động trong một chiến dịch chi viện lớn nhất từ trước tới nay.
Tại thành phố Sài Gòn lúc đó, thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ (12-4-1975), lực lượng cán bộ ở nội đô và ở vùng ven được tăng cường: trong nội thành, có gần 1.000 đảng viên và đoàn viên, ngoài ra còn hàng nghìn quần chúng nòng cốt và tích cực... Ngoài 3.345 dân quân, du kích, còn có 233 tự vệ mật. Bộ đội tập trung của thành có 2 trung đoàn và 5 tiểu đoàn; mỗi huyện cũng có từ 1 đến 2 đại đội; có 6 trung đoàn đặc công vừa ém sẵn các vị trí trong thành phố và các vùng ven... Để đảm bảo cho chiến dịch toàn thắng, đồng thời (gian) bảo vệ được an toàn tính mạng của nhân dân và các công trình văn hoá, nghệ thuật...trong thành phố, chúng ta chủ trương đánh trúng vào 5 mục tiêu quan trọng nhất: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Tổng Nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô và Sân bay Tân Sơn Nhất. Các đơn vị lớn của ta trên các hướng tiến vào áp sát thành phố Sài Gòn - Gia Định vừa lần lượt tiêu diệt các căn cứ phòng thủ từ xa của địch. Trong các trận đánh ấy, quan trọng nhất là trận đánh thị xã Xuân Lộc (Long Khánh), một vị trí án ngữ cửa ngõ phía đông thành phố Sài Gòn - Gia Định, nhằm tạo thế có lợi mở đường tiến công Sài Gòn.
Sáng 9-4-1975, quân ta nổ súng tiến công Xuân Lộc và tiểu khu Long Khánh. Cuộc chiến đấu diễn ra rất gay go, quyết liệt. Ngày 16-4, căn cứ phòng thủ của địch ở Phan Rang bị phá vỡ, tỉnh Ninh Thuận được giải phóng. Thừa thắng, quân ta kết hợp với lực lượng quần chúng nổi dậy lần lượt giải phóng tỉnh Bình Thuận với thị xã Phan Thiết (19-4)... Quân ngụy lâm vào tình trạng nguy ngập thực sự. Sự sống còn chỉ có thể tính từng ngày,
từng tuần, không thể tính từng tháng. Ngày 18-4, Tổng thống Mĩ ra lệnh di tản người Mĩ ra khỏi Sài Gòn. Ngày 20-4, quân địch ở Xuân Lộc buộc phải rút chạy, quân ta giải phóng tỉnh Long Khánh.
Chiến thắng Xuân lộc làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở xung quanh Sài Gòn, làm cho tinh thần quân ngụy càng thêm suy sụp.
Ngày 21-4, theo "gợi ý" của Mĩ, Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống, Trần Văn Hương lên thay để có tính chất "hợp hiến", nhưng chính là một bước để chuyển cho Dương Văn Minh, người mà chúng cho rằng ta có thể chấp nhận thương lượng. Đến ngày 26-4, các quân đoàn chủ lực và binh khí kĩ thuật của ta vừa có mặt tại các vị trí tập kết. Cùng ngày, Trần Văn Hương tuyên bố nhường chức Tổng thống cho Dương Văn Minh. Đúng 17 giờ ngày 26-4, quân ta nổ súng tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở phía đông Sài Gòn, chính thức mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ đó đến ngày 28-4, các binh đoàn chủ lực của ta lần lượt tiêu diệt các căn cứ phòng thủ vòng ngoài của địch, hình thành thế bao vây áp sát thành phố Sài Gòn – Gia Định. Cùng thời (gian) gian này, các đơn vị đặc công, biệt động và lực lượng vũ trang nội thành làm nhiệm vụ đánh địch, giữ các cấu vào thành phố, dẫn đường cho các binh đoàn đánh chiếm các mục tiêu vừa định; đồng thời (gian) hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phối hợp với các cuộc tiến công quân sự. Giữa lúc các cánh quân lớn của ta đang rầm rập tiến về Sài Gòn, vào lúc 17 giờ ngày 28-4, một bay đội mang tên "Quyết Thắng", do Nguyễn Thành Trung chỉ huy, lái 5 chiếc máy bay A37 ném bm xuống Sân bay Tân Sơn Nhất, gây nỗi kinh hoàng trong quân ngụy. Đêm 28 rạng 29-4-1975, quân ta thực hành tổng tiến công trên toàn mặt trận. Sau một ngày chiến đấu, quân ta phá vỡ và chiếm được các căn cứ vòng ngoài Sài Gòn - Gia Định, ngăn chặn và tiêu diệt các sư đoàn chủ lực ngụy, không cho chúng co về, đánh chiếm các bàn đạp để tiến vào nội thành. Ngày 30-4, các binh đoàn chủ lực của ta tiến hành đột kích, kết hợp với các lực lượng bên trong, đánh chiếm các cơ quan trọng yếu trong guồng máy chiến tranh của ngụy quyền Sài Gòn.
Trước sự thất bại không tránh khỏi, Tổng thống ngụy Dương Văn Minh xin "ngừng bắn, điều đình để giao chính quyền". Quân và dân ta kiên quyết thi hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Bộ chỉ huy Chiến dịch: "Tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch, tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh thành phố, tước vũ khí quân địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để tất cả sự chống cự của địch".
Vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 30-4, binh đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn II tiến vào Dinh Độc Lập, bắt tại chỗ toàn bộ ngụy quyền trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, cờ cách mạng tung bay trên nóc Phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trên đà chiến thắng, từ ngày 30-4 đến ngày 1-5-1975, đồng bào và chiến sĩ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt tiến công và nổi dậy, giành quyền làm chủ. Toàn bộ lãnh thổ trên đất liên của miền Nam được giải phóng. Cùng với đất liền, ngày 30-4, các chiến sĩ yêu nước bị địch giam giữ tại nhà tù Côn Đảo nổi dậy giải phóng đảo. Ngày 2-5- 1975. Quân Giải phóng cùng nhân dân tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ hoàn toàn đảo Phú Quốc.
Trải qua gần hai tháng chiến đấu vô cùng anh dũng và sáng tạo của quân và dân ta, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vừa toàn thắng. Chúng ta vừa loại khỏi vòng chiến đấu 1,1 triệu quân ngụy do Mĩ trực tiếp tổ chức, trang bị và chỉ huy, làm tan rã toàn bộ lực lượng phòng vệ dân sự gồm hơn 1 triệu tên; đánh đổ toàn bộ hệ thống ngụy quyền các cấp mà Mĩ vừa dày công xây dựng trong hơn 20 năm. Như vậy, tất cả cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ ở miền Nam nước ta bị quét sạch.
III- Nghiên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975)
1- Nguyên nhân thắng lợi
Trải qua hơn 20 năm, với 5 đời Tổng thống kế tiếp nhau (Aixenhao, Kennơđi, Giônxơn, Níchxơn, Pho) và 4 chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới ("chiến tranh một phía", "chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ", "chiến tranh Việt Nam hoá"), đế quốc Mĩ vừa huy động một khối lượng rất lớn về người và của vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Vào thời (gian) điểm cao nhất, chúng sử dụng 55 vạn quân viễn chinh, 7 vạn quân đồng minh, 110 vạn quân ngụy; ném xuống hai miền Nam - Bắc Việt Nam 7,8 triệu tấn bm đạn; tiêu tốn khoảng 676 tỉ đôla và nếu tính cả chi phí gián tiếp thì con số đó lên tới 920 tỉ đôla..., nhưng cuối cùng chúng vừa phải chấp nhận thất bại thảm hại. Nhân dân ta vừa giành được thắng lợi to lớn và trọn vẹn.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan tạo nên. Trước hết, thắng lợi đó là kết quả của đường lối chính trị - quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, sáng tạo do Đảng ta đề ra.
Thấm nhuần quan điểm cách mạng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng và mở rộng lớn khối đoàn kết toàn dân. Việc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9-1955), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (12-1960) và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam (4-1968) là những biểu hiện cụ thể chứng minh điều ấy.
Luôn giương cao và kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một trong những tư tưởng cơ bản, có tính xuyên suốt của Đảng ta. Tư tưởng này được thể hiện một cách sinh động ở đường lối thực hiện đồng thời (gian) hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai chiến lược cách mạng có quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Với đường lối đó, cách mạng nước ta vừa kết hợp được sức mạnh chiến đấu của tiền tuyến lớn với sức mạnh của hậu phương lớn; kết hợp được cuộc chiến đấu của nhân dân ta với cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng trên thế giới.
Đường lối chính trị - quân sự đúng đắn còn thể hiện ở chỗ, Đảng ta biết tạo ra sức mạnh to lớn để đánh Mĩ và thắng Mĩ. Sức mạnh tổng hợp này được tạo thành bởi sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh ba dòng thác cách mạng của thời (gian) đại, sức mạnh của tiến công kết hợp với sức mạnh của nổi dậy, của đánh lớn , đánh vừa và đánh nhỏ . . . Trong quá trình lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam, Đảng ta luôn thực hành được tư tưởng chiến lược tiến công theo phương châm đánh lùi địch từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ chúng hoàn toàn.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, truyền thống đó được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh to lớn cho quân và dân ta lần lượt đánh bại từng chiến lược chiến tranh của Mĩ - ngụy và cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn. Sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Trải qua 20 năm thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiềm lực kinh tế, quốc phòng miền Bắc không ngừng tăng lên; sự nhất trí về chính trị tinh thần ngày càng được phát huy cao độ trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Nhờ đó, miền Bắc luôn làm tròn vai trò hậu phương lớn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước còn do chúng ta có sức mạnh của khối đoàn kết chiến đấu ngày càng bền chặt giữa nhân dân ba nước Đông Dương; sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Mĩ.
2- Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước với đỉnh cao là Đại thắng Xuân 1975 vừa chấm dứt tình trạng chiến tranh kéo dài 30 năm trên đất nước ta. Lần đầu tiên sau 117 năm, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Bắc - Nam được sum họp một nhà; non sông nối liền một dải. Cách mạng nước ta từ chỗ thực hiện đồng thời (gian) hai chiến lược vừa chuyển sang thời (gian) kì thực hiện một chiến lược duy nhất, đó là chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Một kỉ nguyên mới được mở ra trong lịch sử dân tộc ta: kỉ nguyên độc lập, thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước có ý nghĩa thời (gian) đại rất sâu sắc. Đây là một đòn giáng mạnh đập tan cuộc phản kích lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ vào các lực lượng cách mạng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phá vỡ phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mĩ hòng ngăn chặn làn sóng cách mạng ở khu vực Đông Nam á, lũy phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Thắng lợi của dân tộc ta vừa chứng minh một chân lí: Trong thời (gian) đại ngày nay, một dân tộc thuộc địa dù nhỏ bé, nhưng nếu biết đoàn kết và quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, có đường lối chính trị - quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, sáng tạo, thì hoàn toàn có khả năng đánh bại tất cả thế lực đế quốc xâm lược. Do đó, nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời (gian) đại sâu sắc".
Nguồn: Sách Lịch sử Việt Nam 1945-2000