Một điều hơi lạ, trong chuyện đào luyện con người, người ta bất mấy quan tâm đến môn tâm lý học. Trong chương trình học vấn, người ta bất đếm xỉa đến nó hay chỉ dạy phớt qua. Có lẽ người ta nghĩ rằng những lớp triết học mà một số ít sinh viên ban trung học có dịp theo đuổi, là những hành lý đầy đủ để họ xông pha trên trường đời. Ngoài ra người ta phó thác họ cho đời chỉ dạy.
Theo ý kiến một vài nhà giáo dục, chúng ta nhồi nhét vào trí óc của trẻ em quá nhiều tri thức. Chúng ta muốn nhào nặn khối óc của chúng trở thành một bộ bách khoa toàn thư “sống”, nhưng chúng ta quên dạy chúng cái khoa học cốt yếu, quên trao cho chúng cái chìa khóa có thể mở các cánh cửa: tâm lý học.
Ngoại trừ bị giam hãm suốt đời trong một phòng chốngthí nghiệm hay trong một xưởng máy, chúng ta luôn luôn cần nhờ đến người khác để áp dụng những điều hiểu biết của mình hay đối phó với sự thờ ơ, ghét vơ của họ.
Nên chúng ta dốt đặc về tâm lý học, nếu chúng ta bất hiểu về những định luật bất dịch chi phối những thị dục của con người, nếu chúng ta bất đặng dẫn dắt bởi những chân lý vừa từng thí nghiệm, thì với hiểu biết của chúng ta rất có thể đưa chúng ta tới thất bại. Chúng ta có thể nói bất sợ lầm rằng: sự hiểu biết của tất cả người có đắc dụng chăng là tùy thuộc sự thấu đáo về tâm lý của họ.
Kiến nghiệm và khoa học:
Đành rằng, kinh nghiệm của sự đời cũng có thể giúp chúng ta nhận xét để hiểu biết người. Thường gần gũi với người cùng loại, chúng ta có thể phán đoán về họ, nếu chúng ta có chút ít tiềm năng về chuyện đánh giá con người.
Nhưng chúng ta đừng lầm lộn chuyện áp dụng thực tiễn một khoa học với tiềmo cứu những nguyên tắc của nó. Cái kinh nghiệm chúng ta thâu rút khi chung đụng với đời có thể hợp thành một phương pháp kinh nghiệm. (Phương pháp kinh nghiệm là phương pháp chỉ được căn cứ vào những kinh nghiệm, bất chịu tìm hiểu nguyên do, khác với phương pháp thực nghiệm căn cứ trên những thí nghiệm khoa học. Thí dụ Đông y phụ thuộc vào phương pháp kinh nghiệm và Tây y sau khi trải qua giai đoạn kinh nghiệm, vừa tiến đến giai đoạn thực nghiệm). Dù bất có ý khinh rẻ phương pháp kinh nghiệm, chúng ta cũng phải nhận thấy nó có lắm bất tiện. Muốn dùng đặng nó chúng ta phải trả một giá khá đắt: phải trải qua những lỗi lầm, đau thương, phải mất bao nhiêu thời (gian) giờ, bao nhiêu cố gắng. Đó là chưa kể muốn áp dụng đặng những kinh nghiệm ấy chúng ta phải có đôi chút tiềm năng trời nhiên; trái lại, phương pháp thực nghiệm căn cứ trên những nền tảng khoa học có thể giúp ích cho một số đông người có những tiềm năng tầm thường.
Ở ngoài đời, chúng ta vừa từng thấy có người văn hóa rất kém (mà chúng tui đã đặt cho họ cái tên hơi bất công là “những người sơ đẳng”) vừa chiếm đặng những đất vị tiềm quan trong xã hội. Có nên vì đó mà kết luận rằng văn hóa bất cần thiết để thành công?
Có lắm tay ngang thiếu học chuyên môn những cũng cạy cục rất tài để có thể ráp nỗi một bộ máy không tuyến truyền thanh rắc rối. Tuy bất biết qua về lý thuyết nhưng nhờ có mó tay vào thực hành nên họ cũng có thể bàn về “tần số”, về “cuộn xen”, về “máy phát sóng”… một cách khá rành rẽ. Có phải vì thế mà chúng ta nên cho rằng muốn học về không tuyến điện bất nên phải học qua phần lý thuyết? Chắc chắn là bất ai sẽ nghĩ như thế, vì ai ai cũng thấy rõ, một tay ngang thiếu cơ sở khoa học mà ráp nổi bộ máy truyền thanh ấy, ắt vừa mất bao nhiêu thì giờ, bao nhiêu dọ dẫm và bao nhiêu nhẫn nại mới có thể đạt đến đích, đó là chưa kể hắn phải có nhiều tài quan sát. Một kỹ sư điện học, trái lại chỉ cần vài giờ suy nghĩ là có thể ráp xong máy ấy nhờ áp dụng những hiểu biết về lý thuyết mà ông ta vừa thu thập được khi học ở trường.
Biết người:
Bí quyết của thành công, trong đời sống cũng như doanh nghề gồm hai chữ “Biết Người”. Ở đây chúng ta bất nên hiểu hai chữ “thành công” với cái nghĩa hẹp hòi là thâu đoạt được nhiều trước của, nhiều danh vọng, mà nên hiểu rộng lớn là sự tiến bộ về tri thức cũng như về vật chất, là sự trả thành một cách hợp lý cái nhiệm vụ mà đời sống vừa vạch cho mình.
Một người bán hàng, một thương gia (nhà) dù sẵn có nhiều tiềm năng thể chất hoạt động tâm thần cũng chưa ắt vừa dễ thành công nếu họ thiếu đức mẫn tiệp, thiếu hiểu biết về tâm lý học để có thể gợi sự thèm thuồng của khách hàng.
Một kỹ sư khôi nguyên ở trường bách khoa xuất thân rất có thể thất bại trong những công trình của mình, nếu họ bất biết gì về cá tính của những nhân viên làm chuyện dưới tay họ.
Một doanh nghề có thể suy sụp dù rằng được điều khiển bởi một viên giám đốc có tài, nếu ông ta lầm lỗi trong chuyện tuyển chọn những nhân viên cần thiết giúp ông ta làm tròn nhiệm vụ.
Một tay cuộc chê đi chào mời khách hàng bảo hiểm nhân mạng, dù rằng có biết rõ sự ích lợi về mặt xã hội của chuyện bảo hiểm, cũng chưa ắt vừa có thể khuyến dụ khách hàng ký hợp cùng nếu hắn bất biết cách trình bày những lý lẽ một cách khéo léo để cho khách hàng gật đầu.
Một người có thể có tài viết văn, nhưng làm báo lại rất dở nếu họ bất hiểu tâm lý quần chúng. Một họa sĩ dù có sẵn trời tư cũng cần thấu đáo cá tính của người mẫu mới mong đạt được sắc diện của người ấy nổi. Một nghị sĩ phải thấu hiểu cử tri của mình. Một trạng sư: những thân chủ của mình. Một y sĩ: những bệnh nhân của mình. Một sĩ quan: những quân sĩ của mình. Một vị thuyền trưởng: đoàn thủy thủ của mình. Chỉ có nhân viên thu thuế là… bất cần hiểu những tên dân đen.
Trong đời sống thực tiễn, những cuộc xào xáo trong gia (nhà) đình, những xích mích giữa bạn bè, những bất mãn do người giúp chuyện bất tín gây ra, những thất vọng về đường tình duyên thường có nguyên do bởi sự dốt nát về tâm lý học.
Như chúng ta vừa thấy, bất luận trong ngành sinh hoạt nào, chúng ta cũng cần biết rõ cá tính của những người mà chúng ta có liên lạc gần hay xa.
Nghiên cứu về tâm lý học chẳng những giúp ích chúng ta rất nhiều trong phạm vi chức nghiệp, ngoài ra nó còn giúp chúng ta thâu đoạt nhiều kết quả thiết thực trên đường giao thiệp.
Ngày nay, tâm lý học là một khoa học có thể truyền dạy cũng như bao nhiêu khoa học khác. Với một bộ óc thông minh trung bình người ta cũng có thể học và hiểu nó. Nó cũng bất bắt buộc người học phải có số vốn về triết học. Nó căn cứ trên những yếu chỉ và những nguyên tắc có lẽ còn giản dị hơn môn hình học hay vật lý học. Người vừa có một cơ sở tâm lý học sẽ dễ mà rút tỉa những cái hay trong mớ kinh nghiệm mà đời sống sẽ đưa đến cho họ sau này. Họ sẽ dễ thông cảm, mau hiểu người cùng loại hơn cũng như viên kỹ sư điện học dễ mò ra những bí quyết của không tuyến điện hơn một tay ngang chỉ phụ thuộc vào mớ kinh nghiệm.
Lối văn “triết học”:
Nói cho đúng, chuyện đọc sách tiềmo cứu về tâm lý học thường dễ làm cho người dù hiếu học đến đâu cũng đâm ra chán nản. Nản vì “lối văn triết học” mà phần nhiều tác giả sách này quen dùng, lối văn mà A. Abalat vừa chỉ trích gắt gao trong mấy tác phẩm bàn về nghệ thuật viết văn. Kể ra “lối văn triết học” này có thể so sánh với “lối văn sở cẩm” mà André Thérive vừa từng chế giễu. Và có khi nó còn tệ hơn, vì trong lối văn sau này, những danh từ dùng sai nghĩa song người ta còn có thể đoán được chứ đọc “lối văn triết học” thì chẳng khác gì đọc sấm ký, bởi tác giả thường khéo che đậy một cái trống bất to tướng dưới một lớp danh từ khúc mắc có vẻ khoa học.
Đành rằng văn của Bergson (Nhà triết học Ly Lạp) cũng tối mò song ít ra chúng ta còn thưởng thức đặng cách bố trí chặt chẽ những ức thuyết rất" mới "kỳ của ông. Dù vậy, tui cũng mạn phép trách ông điều này là ông vừa không biết làm cho một người chỉ có óc thông minh trung bình hiểu đặng tư tưởng ông. Muốn hiểu ông, phải đọc qua những sách diễn giải tư tưởng ông.
tui vốn nghi kỵ những lối văn chuyên môn dành riêng cho từng khoa học. Vì người ta rất dễ lạm dụng nó để lòe đời và như vậy người ta chỉ cần học qua một mớ thuật ngữ là có thể bàn đến nhiều vấn đề không lý dưới cái vẻ sành sỏi.
Anatole France nói rất đúng: “Sự dốt nát sở dĩ có là do trong ngôn ngữ chúng ta còn lắm danh từ nghĩa bất được đích xác”.
Trong quyển “Luận Về Trí Năng Con người” nhà lớn tư tưởng Locke vừa nói: “Muốn cho người ta thâu nhận những chủ nghĩa bay lý hay kỳ hoặc, bất có cách gì hay bằng bao phủ những lý thuyết ấy dưới một lớp danh từ tối nghĩa, mù mờ hay bất định rõ nghĩa”.
tui tin rằng người ta có thể bàn giải nhiều vấn đề mắc mỏ bằng một lối văn thông thường, với những danh từ thông dụng, chỉ dùng đến những thuật ngữ khi chúng ta bất tìm thấy trong ngôn ngữ thông thường một danh từ tương đương và nếu phải dùng đến một danh từ chuyên khoa ít ra chúng ta phải định nghĩa nó cho rành mạch.
Đó cũng là quy tắc mà chúng tui cố gắng theo khi soạn ra sách này. Chúng tui được sung sướng nếu tất cả bạn đọc đều có thể hiểu chúng tôi, dù là người chỉ có sức học cơ sở sơ học.
Có cần gì phải nói bất phải một khi gấp quyển sách này lại mà quý bạn đọc vừa trở thành một nhà tâm lý sành sỏi.
Việc dọ dẫm, tiềmo xét cá tính con người là một công chuyện tế nhị vì mỗi con người là mỗi trường hợp riêng biệt.
Nhưng muốn giải đáp bài toán, ít ra nên phải biết những định lý căn bản. Đây chỉ là một mớ tài liệu về khoa học của tâm hồn mà chúng tui ước mong rằng nó sẽ giúp cho những ai muốn tìm hiểu bài giải về cá tính con người.
Theo Phạm Cao Tùng
Theo ý kiến một vài nhà giáo dục, chúng ta nhồi nhét vào trí óc của trẻ em quá nhiều tri thức. Chúng ta muốn nhào nặn khối óc của chúng trở thành một bộ bách khoa toàn thư “sống”, nhưng chúng ta quên dạy chúng cái khoa học cốt yếu, quên trao cho chúng cái chìa khóa có thể mở các cánh cửa: tâm lý học.
Ngoại trừ bị giam hãm suốt đời trong một phòng chốngthí nghiệm hay trong một xưởng máy, chúng ta luôn luôn cần nhờ đến người khác để áp dụng những điều hiểu biết của mình hay đối phó với sự thờ ơ, ghét vơ của họ.
Nên chúng ta dốt đặc về tâm lý học, nếu chúng ta bất hiểu về những định luật bất dịch chi phối những thị dục của con người, nếu chúng ta bất đặng dẫn dắt bởi những chân lý vừa từng thí nghiệm, thì với hiểu biết của chúng ta rất có thể đưa chúng ta tới thất bại. Chúng ta có thể nói bất sợ lầm rằng: sự hiểu biết của tất cả người có đắc dụng chăng là tùy thuộc sự thấu đáo về tâm lý của họ.
Kiến nghiệm và khoa học:
Đành rằng, kinh nghiệm của sự đời cũng có thể giúp chúng ta nhận xét để hiểu biết người. Thường gần gũi với người cùng loại, chúng ta có thể phán đoán về họ, nếu chúng ta có chút ít tiềm năng về chuyện đánh giá con người.
Nhưng chúng ta đừng lầm lộn chuyện áp dụng thực tiễn một khoa học với tiềmo cứu những nguyên tắc của nó. Cái kinh nghiệm chúng ta thâu rút khi chung đụng với đời có thể hợp thành một phương pháp kinh nghiệm. (Phương pháp kinh nghiệm là phương pháp chỉ được căn cứ vào những kinh nghiệm, bất chịu tìm hiểu nguyên do, khác với phương pháp thực nghiệm căn cứ trên những thí nghiệm khoa học. Thí dụ Đông y phụ thuộc vào phương pháp kinh nghiệm và Tây y sau khi trải qua giai đoạn kinh nghiệm, vừa tiến đến giai đoạn thực nghiệm). Dù bất có ý khinh rẻ phương pháp kinh nghiệm, chúng ta cũng phải nhận thấy nó có lắm bất tiện. Muốn dùng đặng nó chúng ta phải trả một giá khá đắt: phải trải qua những lỗi lầm, đau thương, phải mất bao nhiêu thời (gian) giờ, bao nhiêu cố gắng. Đó là chưa kể muốn áp dụng đặng những kinh nghiệm ấy chúng ta phải có đôi chút tiềm năng trời nhiên; trái lại, phương pháp thực nghiệm căn cứ trên những nền tảng khoa học có thể giúp ích cho một số đông người có những tiềm năng tầm thường.
Ở ngoài đời, chúng ta vừa từng thấy có người văn hóa rất kém (mà chúng tui đã đặt cho họ cái tên hơi bất công là “những người sơ đẳng”) vừa chiếm đặng những đất vị tiềm quan trong xã hội. Có nên vì đó mà kết luận rằng văn hóa bất cần thiết để thành công?
Có lắm tay ngang thiếu học chuyên môn những cũng cạy cục rất tài để có thể ráp nỗi một bộ máy không tuyến truyền thanh rắc rối. Tuy bất biết qua về lý thuyết nhưng nhờ có mó tay vào thực hành nên họ cũng có thể bàn về “tần số”, về “cuộn xen”, về “máy phát sóng”… một cách khá rành rẽ. Có phải vì thế mà chúng ta nên cho rằng muốn học về không tuyến điện bất nên phải học qua phần lý thuyết? Chắc chắn là bất ai sẽ nghĩ như thế, vì ai ai cũng thấy rõ, một tay ngang thiếu cơ sở khoa học mà ráp nổi bộ máy truyền thanh ấy, ắt vừa mất bao nhiêu thì giờ, bao nhiêu dọ dẫm và bao nhiêu nhẫn nại mới có thể đạt đến đích, đó là chưa kể hắn phải có nhiều tài quan sát. Một kỹ sư điện học, trái lại chỉ cần vài giờ suy nghĩ là có thể ráp xong máy ấy nhờ áp dụng những hiểu biết về lý thuyết mà ông ta vừa thu thập được khi học ở trường.
Biết người:
Bí quyết của thành công, trong đời sống cũng như doanh nghề gồm hai chữ “Biết Người”. Ở đây chúng ta bất nên hiểu hai chữ “thành công” với cái nghĩa hẹp hòi là thâu đoạt được nhiều trước của, nhiều danh vọng, mà nên hiểu rộng lớn là sự tiến bộ về tri thức cũng như về vật chất, là sự trả thành một cách hợp lý cái nhiệm vụ mà đời sống vừa vạch cho mình.
Một người bán hàng, một thương gia (nhà) dù sẵn có nhiều tiềm năng thể chất hoạt động tâm thần cũng chưa ắt vừa dễ thành công nếu họ thiếu đức mẫn tiệp, thiếu hiểu biết về tâm lý học để có thể gợi sự thèm thuồng của khách hàng.
Một kỹ sư khôi nguyên ở trường bách khoa xuất thân rất có thể thất bại trong những công trình của mình, nếu họ bất biết gì về cá tính của những nhân viên làm chuyện dưới tay họ.
Một doanh nghề có thể suy sụp dù rằng được điều khiển bởi một viên giám đốc có tài, nếu ông ta lầm lỗi trong chuyện tuyển chọn những nhân viên cần thiết giúp ông ta làm tròn nhiệm vụ.
Một tay cuộc chê đi chào mời khách hàng bảo hiểm nhân mạng, dù rằng có biết rõ sự ích lợi về mặt xã hội của chuyện bảo hiểm, cũng chưa ắt vừa có thể khuyến dụ khách hàng ký hợp cùng nếu hắn bất biết cách trình bày những lý lẽ một cách khéo léo để cho khách hàng gật đầu.
Một người có thể có tài viết văn, nhưng làm báo lại rất dở nếu họ bất hiểu tâm lý quần chúng. Một họa sĩ dù có sẵn trời tư cũng cần thấu đáo cá tính của người mẫu mới mong đạt được sắc diện của người ấy nổi. Một nghị sĩ phải thấu hiểu cử tri của mình. Một trạng sư: những thân chủ của mình. Một y sĩ: những bệnh nhân của mình. Một sĩ quan: những quân sĩ của mình. Một vị thuyền trưởng: đoàn thủy thủ của mình. Chỉ có nhân viên thu thuế là… bất cần hiểu những tên dân đen.
Trong đời sống thực tiễn, những cuộc xào xáo trong gia (nhà) đình, những xích mích giữa bạn bè, những bất mãn do người giúp chuyện bất tín gây ra, những thất vọng về đường tình duyên thường có nguyên do bởi sự dốt nát về tâm lý học.
Như chúng ta vừa thấy, bất luận trong ngành sinh hoạt nào, chúng ta cũng cần biết rõ cá tính của những người mà chúng ta có liên lạc gần hay xa.
Nghiên cứu về tâm lý học chẳng những giúp ích chúng ta rất nhiều trong phạm vi chức nghiệp, ngoài ra nó còn giúp chúng ta thâu đoạt nhiều kết quả thiết thực trên đường giao thiệp.
Ngày nay, tâm lý học là một khoa học có thể truyền dạy cũng như bao nhiêu khoa học khác. Với một bộ óc thông minh trung bình người ta cũng có thể học và hiểu nó. Nó cũng bất bắt buộc người học phải có số vốn về triết học. Nó căn cứ trên những yếu chỉ và những nguyên tắc có lẽ còn giản dị hơn môn hình học hay vật lý học. Người vừa có một cơ sở tâm lý học sẽ dễ mà rút tỉa những cái hay trong mớ kinh nghiệm mà đời sống sẽ đưa đến cho họ sau này. Họ sẽ dễ thông cảm, mau hiểu người cùng loại hơn cũng như viên kỹ sư điện học dễ mò ra những bí quyết của không tuyến điện hơn một tay ngang chỉ phụ thuộc vào mớ kinh nghiệm.
Lối văn “triết học”:
Nói cho đúng, chuyện đọc sách tiềmo cứu về tâm lý học thường dễ làm cho người dù hiếu học đến đâu cũng đâm ra chán nản. Nản vì “lối văn triết học” mà phần nhiều tác giả sách này quen dùng, lối văn mà A. Abalat vừa chỉ trích gắt gao trong mấy tác phẩm bàn về nghệ thuật viết văn. Kể ra “lối văn triết học” này có thể so sánh với “lối văn sở cẩm” mà André Thérive vừa từng chế giễu. Và có khi nó còn tệ hơn, vì trong lối văn sau này, những danh từ dùng sai nghĩa song người ta còn có thể đoán được chứ đọc “lối văn triết học” thì chẳng khác gì đọc sấm ký, bởi tác giả thường khéo che đậy một cái trống bất to tướng dưới một lớp danh từ khúc mắc có vẻ khoa học.
Đành rằng văn của Bergson (Nhà triết học Ly Lạp) cũng tối mò song ít ra chúng ta còn thưởng thức đặng cách bố trí chặt chẽ những ức thuyết rất" mới "kỳ của ông. Dù vậy, tui cũng mạn phép trách ông điều này là ông vừa không biết làm cho một người chỉ có óc thông minh trung bình hiểu đặng tư tưởng ông. Muốn hiểu ông, phải đọc qua những sách diễn giải tư tưởng ông.
tui vốn nghi kỵ những lối văn chuyên môn dành riêng cho từng khoa học. Vì người ta rất dễ lạm dụng nó để lòe đời và như vậy người ta chỉ cần học qua một mớ thuật ngữ là có thể bàn đến nhiều vấn đề không lý dưới cái vẻ sành sỏi.
Anatole France nói rất đúng: “Sự dốt nát sở dĩ có là do trong ngôn ngữ chúng ta còn lắm danh từ nghĩa bất được đích xác”.
Trong quyển “Luận Về Trí Năng Con người” nhà lớn tư tưởng Locke vừa nói: “Muốn cho người ta thâu nhận những chủ nghĩa bay lý hay kỳ hoặc, bất có cách gì hay bằng bao phủ những lý thuyết ấy dưới một lớp danh từ tối nghĩa, mù mờ hay bất định rõ nghĩa”.
tui tin rằng người ta có thể bàn giải nhiều vấn đề mắc mỏ bằng một lối văn thông thường, với những danh từ thông dụng, chỉ dùng đến những thuật ngữ khi chúng ta bất tìm thấy trong ngôn ngữ thông thường một danh từ tương đương và nếu phải dùng đến một danh từ chuyên khoa ít ra chúng ta phải định nghĩa nó cho rành mạch.
Đó cũng là quy tắc mà chúng tui cố gắng theo khi soạn ra sách này. Chúng tui được sung sướng nếu tất cả bạn đọc đều có thể hiểu chúng tôi, dù là người chỉ có sức học cơ sở sơ học.
Có cần gì phải nói bất phải một khi gấp quyển sách này lại mà quý bạn đọc vừa trở thành một nhà tâm lý sành sỏi.
Việc dọ dẫm, tiềmo xét cá tính con người là một công chuyện tế nhị vì mỗi con người là mỗi trường hợp riêng biệt.
Nhưng muốn giải đáp bài toán, ít ra nên phải biết những định lý căn bản. Đây chỉ là một mớ tài liệu về khoa học của tâm hồn mà chúng tui ước mong rằng nó sẽ giúp cho những ai muốn tìm hiểu bài giải về cá tính con người.
Theo Phạm Cao Tùng