lazer_lazy1209
New Member
Download Các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay
Có nhiều quan niệm khác nhau về phong tục tập quán, song dưới góc độ coi nó là một dạng quy phạm xã hội thì có thể hiểu phong tục tập quán là những cách ứng xử hay những thói quen ứng xử hay những quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư nhất định, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể bằng cả một số biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Theo Từ điển Black’s Law thì tập quán (custom) là “thực tế mà bằng sự thừa nhận chung và lâu dài đối với nó, thói quen không thay đổi đã trở thành có hiệu lực như pháp luật”[5]. Sau đó, Từ điển này đề cập đến một số loại tập quán như: tập quán thông thường là một tập quán chỉ được thực hiện trực tiếp thông qua sự môi giới của các sự thoả thuận để nó được chấp nhận và được làm theo trong trường hợp cá biệt của cá nhân như là pháp luật thông thường giữa các bên trong những thoả thuận này - cũng còn được gọi là phong tục; tập quán chung có hai nghĩa, một là một tập quán thịnh hành khắp đất nước và tạo nên một trong các nguồn của pháp luật của đất nước, hai là một tập quán mà được công nhận và tuân theo trong thương mại; tập quán pháp luật là tập quán được thực hiện như là một quy định bắt buộc của pháp luật, không phụ thuộc vào một thoả thuận nào của các chủ thể liên quan đến nó - thường là sự thu hẹp của tập quán; tập quán địa phương là tập quán chỉ thịnh hành ở một số địa phương nhất định như là một thành phố hay một tỉnh và tạo thành nguồn của pháp luật chỉ trong địa phương đó - cũng còn được gọi là tập quán đặc biệt, tập quán riêng biệt. Từ điển này còn đề cập đến cụm từ tập quán và phong tục (custom and usage) và giải thích đó là những quy định, những thực tiễn chung đã được công chúng công nhận thông qua thói quen không thay đổi và thói quen chung.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
CÁC LOẠI NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. Nguyễn Thị Hồi
“Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”[1]. Nguồn của pháp luật bao gồm: nguồn nội dung và nguồn hình thức; nguồn chủ yếu (nguồn cơ bản) và nguồn thứ yếu, tùy vào căn cứ phân biệt. Khi xem xét về nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, cần quan tâm cả nguồn nội dung và nguồn hình thức của nó, trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật”[2]; “nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là cách tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”[3]. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối.1. Một số nguồn nội dung của pháp luật Việt NamĐường lối, chính sách của ĐảngĐường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một giai đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những mục tiêu, phương hướng này. Và những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế. Nội dung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), từ Hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không được trái với đường lối, chính sách của Đảng. Về mặt lý luận, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có thể là nguồn nội dung mà không thể là nguồn hình thức của pháp luật; song, trong thực tế có lúc nó cũng được coi là nguồn hình thức của pháp luật như việc áp dụng thẳng Nghị quyết 10 và Chỉ thị 100 của Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp ở một số địa phương trước đây. Nói chung, việc áp dụng thẳng đường lối, chính sách của Đảng vào các lĩnh vực của xã hội là một hạn chế cần khắc phục, vì về mặt nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hay thực hiện nghiêm chỉnh đối với các đảng viên và các tổ chức đảng. Và dĩ nhiên, đường lối, chính sách đó chỉ có thể có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với toàn xã hội khi nó được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật.Nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội của đất nướcĐây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một trong những cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ các loại thị trường (thị trường lao động, thị trường hàng hoá, thị trường bất động sản, thị trường tài chính...); cụ thể hoá các chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập...; sắp xếp, cơ cấu lại các ngành kinh tế, điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều hướng vừa thúc đẩy sự tăng trưởng, vừa bảo đảm sự cân đối và ổn định của nền kinh tế - xã hội.Các tư tưởng, học thuyết pháp lýCác tư tưởng, học thuyết pháp lý cũng có thể trở thành nguồn nội dung của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 2 của Hiến pháp hiện hành của nước ta thì, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.Quy định này của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; tư tưởng chủ quyền nhân dân; tư tưởng nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các yếu tố hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực nhà nước.2. Các loại nguồn hỗn hợpBên cạnh các nguồn nội dung kể trên, còn có các nguồn vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Đó là các nguồn cơ bản sau:Các nguyên tắc chung của pháp luậtĐây là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế. Có những nguyên tắc chỉ là nguồn nội dung của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì, “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự ...”. Quy định này xuất phát từ một nguyên tắc chung của pháp luật là không ai bị coi là có tội nếu tội đó không được quy định trong luật hình. hay quy định của Điều 130 của Hiến pháp năm 1992 rằng, “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm tính độc lập của toà án.Song, có những nguyên tắc vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Ví dụ, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này được coi là nguồn nội dung của pháp luật vì các quy định của pháp luật trong nhiều lĩnh vực được ban hành ra nhằm thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước phục vụ cho sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi cá nhân, bảo đảm công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo... Với tư cách là nguồn hình thức của pháp luật, nguyên tắc này đòi hỏi khi xác định mức bồi thường thiệt hại xảy ra trong thực tế phải tuỳ từng trường hợp cụ thể của nạn nhân và của người gây thiệt hại, có trường hợp chỉ yêu cầu bồi thường những thiệt hại trực tiếp; song, có trường hợp lại phải yêu cầu bồi thường cả những thiệt hại trực tiếp lẫn những thiệt hại gián tiếp.Văn bản quy phạm pháp luậtĐây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các VBQPPL. VBQPPL là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.VBQPPL ở nước ta bao gồm nhiều loại với giá trị pháp lý cao, thấp khác nhau. Đứng đầu thang bậc giá trị pháp lý trong hệ thống VBQPPL là Hiến pháp, đạo luật gốc, luật cơ bản của Nhà nước. Tiếp đó là các đạo luật và các nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban...
Download miễn phí Các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay
Có nhiều quan niệm khác nhau về phong tục tập quán, song dưới góc độ coi nó là một dạng quy phạm xã hội thì có thể hiểu phong tục tập quán là những cách ứng xử hay những thói quen ứng xử hay những quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư nhất định, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể bằng cả một số biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Theo Từ điển Black’s Law thì tập quán (custom) là “thực tế mà bằng sự thừa nhận chung và lâu dài đối với nó, thói quen không thay đổi đã trở thành có hiệu lực như pháp luật”[5]. Sau đó, Từ điển này đề cập đến một số loại tập quán như: tập quán thông thường là một tập quán chỉ được thực hiện trực tiếp thông qua sự môi giới của các sự thoả thuận để nó được chấp nhận và được làm theo trong trường hợp cá biệt của cá nhân như là pháp luật thông thường giữa các bên trong những thoả thuận này - cũng còn được gọi là phong tục; tập quán chung có hai nghĩa, một là một tập quán thịnh hành khắp đất nước và tạo nên một trong các nguồn của pháp luật của đất nước, hai là một tập quán mà được công nhận và tuân theo trong thương mại; tập quán pháp luật là tập quán được thực hiện như là một quy định bắt buộc của pháp luật, không phụ thuộc vào một thoả thuận nào của các chủ thể liên quan đến nó - thường là sự thu hẹp của tập quán; tập quán địa phương là tập quán chỉ thịnh hành ở một số địa phương nhất định như là một thành phố hay một tỉnh và tạo thành nguồn của pháp luật chỉ trong địa phương đó - cũng còn được gọi là tập quán đặc biệt, tập quán riêng biệt. Từ điển này còn đề cập đến cụm từ tập quán và phong tục (custom and usage) và giải thích đó là những quy định, những thực tiễn chung đã được công chúng công nhận thông qua thói quen không thay đổi và thói quen chung.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nayCÁC LOẠI NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. Nguyễn Thị Hồi
“Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”[1]. Nguồn của pháp luật bao gồm: nguồn nội dung và nguồn hình thức; nguồn chủ yếu (nguồn cơ bản) và nguồn thứ yếu, tùy vào căn cứ phân biệt. Khi xem xét về nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, cần quan tâm cả nguồn nội dung và nguồn hình thức của nó, trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật”[2]; “nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là cách tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”[3]. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối.1. Một số nguồn nội dung của pháp luật Việt NamĐường lối, chính sách của ĐảngĐường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một giai đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những mục tiêu, phương hướng này. Và những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế. Nội dung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), từ Hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không được trái với đường lối, chính sách của Đảng. Về mặt lý luận, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có thể là nguồn nội dung mà không thể là nguồn hình thức của pháp luật; song, trong thực tế có lúc nó cũng được coi là nguồn hình thức của pháp luật như việc áp dụng thẳng Nghị quyết 10 và Chỉ thị 100 của Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp ở một số địa phương trước đây. Nói chung, việc áp dụng thẳng đường lối, chính sách của Đảng vào các lĩnh vực của xã hội là một hạn chế cần khắc phục, vì về mặt nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hay thực hiện nghiêm chỉnh đối với các đảng viên và các tổ chức đảng. Và dĩ nhiên, đường lối, chính sách đó chỉ có thể có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với toàn xã hội khi nó được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật.Nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội của đất nướcĐây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một trong những cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ các loại thị trường (thị trường lao động, thị trường hàng hoá, thị trường bất động sản, thị trường tài chính...); cụ thể hoá các chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập...; sắp xếp, cơ cấu lại các ngành kinh tế, điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều hướng vừa thúc đẩy sự tăng trưởng, vừa bảo đảm sự cân đối và ổn định của nền kinh tế - xã hội.Các tư tưởng, học thuyết pháp lýCác tư tưởng, học thuyết pháp lý cũng có thể trở thành nguồn nội dung của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 2 của Hiến pháp hiện hành của nước ta thì, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.Quy định này của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; tư tưởng chủ quyền nhân dân; tư tưởng nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các yếu tố hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực nhà nước.2. Các loại nguồn hỗn hợpBên cạnh các nguồn nội dung kể trên, còn có các nguồn vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Đó là các nguồn cơ bản sau:Các nguyên tắc chung của pháp luậtĐây là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế. Có những nguyên tắc chỉ là nguồn nội dung của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì, “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự ...”. Quy định này xuất phát từ một nguyên tắc chung của pháp luật là không ai bị coi là có tội nếu tội đó không được quy định trong luật hình. hay quy định của Điều 130 của Hiến pháp năm 1992 rằng, “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm tính độc lập của toà án.Song, có những nguyên tắc vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Ví dụ, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này được coi là nguồn nội dung của pháp luật vì các quy định của pháp luật trong nhiều lĩnh vực được ban hành ra nhằm thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước phục vụ cho sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi cá nhân, bảo đảm công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo... Với tư cách là nguồn hình thức của pháp luật, nguyên tắc này đòi hỏi khi xác định mức bồi thường thiệt hại xảy ra trong thực tế phải tuỳ từng trường hợp cụ thể của nạn nhân và của người gây thiệt hại, có trường hợp chỉ yêu cầu bồi thường những thiệt hại trực tiếp; song, có trường hợp lại phải yêu cầu bồi thường cả những thiệt hại trực tiếp lẫn những thiệt hại gián tiếp.Văn bản quy phạm pháp luậtĐây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các VBQPPL. VBQPPL là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.VBQPPL ở nước ta bao gồm nhiều loại với giá trị pháp lý cao, thấp khác nhau. Đứng đầu thang bậc giá trị pháp lý trong hệ thống VBQPPL là Hiến pháp, đạo luật gốc, luật cơ bản của Nhà nước. Tiếp đó là các đạo luật và các nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban...