keokeohaha
New Member
Download Đề tài Cảm biến áp suất lốp
1.1 Tổng quan
TPMS là một hệ thống cảnh báo áp suất lốp. TPMS có thể được chia thành hai loại sau đây, tùy thuộc vào đặc điểm của chúng:
1.1.1. Phương pháp gián tiếp
Trong phương pháp này, hệ thống nhận được tín hiệu cảm biến tốc độ bánh xe và gián tiếp tính toán áp suất lốp xe bằng cách đo những thay đổi trong các tín hiệu. Đối với hệ thống này áp suất lốp xe thực tế có thể bị sai lệch và phần nào kém chính xác so với phương pháp trực tiếp. Điều kiện đường xá khắc nghiệt (off-road, đường xá không trải nhựa, .) lại càng khó nhận biết áp lực chính xác với hệ thống này. Vì lý do này, phương pháp gián tiếp là hầu như không sử dụng ngày nay.
1.1.2 Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này đo áp suất lốp trực tiếp từ các lốp xe bằng cách sử dụng các cảm biến áp suất được gắn trên các lốp xe. Chi phí nhiều hơn so với phương pháp gián tiếp, nhưng chính xác và ổn định hơn rất nhiều. Vì lý do này, phần lớn sản xuất ô tô lớn đang sử dụng phương pháp này. VG cũng có tính năng như một TPMS trực tiếp.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
1. Tổng quan TPMS
1.1 Tổng quan
TPMS là một hệ thống thông báo áp suất lốp. TPMS có thể được chia thành hai loại sau đây, tùy thuộc vào đặc điểm của chúng:
1.1.1. Phương pháp gián tiếp
Trong phương pháp này, hệ thống nhận được tín hiệu cảm biến tốc độ bánh xe và gián tiếp tính toán áp suất lốp xe bằng cách đo những thay đổi trong các tín hiệu. Đối với hệ thống này áp suất lốp xe thực tế có thể bị sai lệch và phần nào kém chính xác so với phương pháp trực tiếp. Điều kiện đường xá khắc nghiệt (off-road, đường xá không trải nhựa, ...) lại càng khó nhận biết áp lực chính xác với hệ thống này. Vì lý do này, phương pháp gián tiếp là hầu như không sử dụng ngày nay.
1.1.2 Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này đo áp suất lốp trực tiếp từ các lốp xe bằng cách sử dụng các cảm biến áp suất được gắn trên các lốp xe. Chi phí nhiều hơn so với phương pháp gián tiếp, nhưng chính xác và ổn định hơn rất nhiều. Vì lý do này, phần lớn sản xuất ô tô lớn đang sử dụng phương pháp này. VG cũng có chức năng như một TPMS trực tiếp.
1.2 So sánh các thông số kỹ thuật
Low-Line
High-Line
1.3 So sánh các chức năng
Low-Line
High-Line
- thông báo đèn bật khi áp suất lốp ở một trong bốn bánh xe giảm xuống.- thông báo áp suất lốp thông báo đèn (không có thể chỉ ra đó lốp xe)- Đèn báo- Truyền thông: CAN
thông báo đèn bật khi áp suất lốp ở một trong bốn bánh xe giảm xuống.- Có thể chỉ ra các lốp xe.- thông báo áp suất lốp
Đèn báo (có thể chỉ ra lốp xe)- Đèn báo- Truyền thông: CAN
Có nhiều nhà sản xuất TPMS, nhưng VG Continental là TPMS cao. Sự khác biệt giữa TPMS thấp và cao là khả năng chỉ ra những áp lực của lốp xe bất thường và sử dụng của người chế tạo. Nếu một trong các lốp xe có áp suất thấp, dòng TPMS cao thông báo cho người lái xe chính xác của áp lực lốp xe cần chú ý thông qua một hệ thống cảnh báo, trong khi TPMS thấp chỉ có thể thông báo cho người lái xe là một trong các lốp xe có áp suất thấp.
2. Thành phần của hệ thống
2.1 Thành phần chính
2.1.1 ECU TPMS
ECU TPMS giao tiếp với Initiator để truyền tải và phân tích dữ liệu áp suất lốp xe từ các cảm biến.
2.1.2 Initiator
Initiator nhận các tín hiệu từ ECU TPMS và gửi các tín hiệu LF cảm biến áp suất để hệ thống có thể thực hiện dò tìm tự động. Các cảm biến áp suất nhận những tín hiệu LF và phản hồi tín hiệu xác nhận LF, trong đường truyền RF.
2.1.3 Cảm biến áp suất lốp
Lắp bên trong vành xe, cảm biến áp suất lốp đọc áp suất lốp, nhiệt độ lốp xe, tăng tốc, điện áp pin và truyền các dữ liệu đã đọc đến ECU.
2.2 Cảm biến áp suất lốp
2.2.1 Thành phần cảm biến bánh xe
Cảm biến trọng lượng 36g và được gắn vào vành bánh xe. Cảm biến không đặt ở lốp dự phòng. Cảm biến có chức năng một pin nhỏ có thể cung cấp năng lượng cho các cảm biến trong khoảng mười năm.
Cảm biến này cũng có chức năng nhận LF (tần số thấp) tín hiệu từ Initiator để xác định vị trí tự động. Cảm biến đọc áp suất lốp, nhiệt độ, tỷ lệ tăng tốc, và điện áp pin và gửi thông tin này đến ECU TPMS thông qua tín hiệu RF, cùng với ID của cảm biến tương ứng. Cảm biến đo và gửi dữ liệu ở các pha khác nhau để kéo dài tuổi thọ pin cảm biến. Đặc điểm kỹ thuật xe trong nước, cảm biến truyền thông tin tại tần số 433MHz và nhận tín hiệu 12KHz LF từ Initiator. Mỗi bộ cảm biến có một mã số duy nhất, để đăng ký ID cảm biến mỗi khi nó được thay thế hay thay đổi vị trí của lốp xe. Cảm biến không kết nối với bất kỳ hệ thống nào bằng dây dẫn và không thể chẩn đoán đối với các công cụ chẩn đoán có sẵn. Chẩn đoán TPMS đòi hỏi phải sử dụng một công cụ kích thích riêng biệt của TPMS, giao tiếp với các cảm biến không dây để đọc các giá trị ID. Khi giao tiếp với receiver và TPMS Exciter, cảm biến sử dụng tín hiệu RF (tần số vô tuyến).
Category
Test
Parking
First Block
Driving
Interim
LFI Comm.
1 sec
16 secs
Exciter Comm.
1 sec
32 secs
32 secs
RF Transmission Conditions
Duration
16 secs
13 hours
16 secs
64 secs
Condition
>5G
>5G
>5G
Misc.
1psi variance between last reading sent to the receiver and the current pressure reading results in 22-second interval RF transmission at 5G.
2.2.2 Các chế độ cảm biến áp suất lốp
①Test Mode: chế độ này Mobis cung cấp một áp suất lốp mới từ cảm biến áp suất lốp xe. Trong chế độ này, cảm biến thức dậy vào khoảng 1s và không truyền tín hiệu RF.
②Test Mode → Parking Mode: Chuyển đổi từ Test Mode → Parking Mode đòi hỏi phải phát hiện 20km/h tốc độ tăng tốc hơn 4 phút.
③Parking Mode → First Block Mode: Trong chế độ Parking Mode, cảm biến gửi tín hiệu RF 13 giờ một lần. Nếu tốc độ đọc là trên 20km/h, cảm biến đi vào chế độ First Block Mode.
④First Block Mode → Interim Mode: Trong chế độ First Block Mode, cảm biến sẽ phát ra tín hiệu RF mỗi 16 giây và đi vào chế độ Interim Mode nếu xe dừng lại hơn 8 phút.
⑤Interim Mode → First Block Mode: Trong chế độ Interim Mode, cảm biến không gửi tín hiệu RF. Nếu cảm biến phát hiện chuyển động xe trong vòng 15 đến 30 phút, nó vào chế độ First Block Mode.
⑥Interim Mode → Parking Mode: Nếu xe dừng lại hơn 15 phút, cảm biến đi vào chế độ Parking Mode.
⑦First Block Mode → Driving Mode: cảm biến gửi 30 tín hiệu RF trong khoảng thời gian 16 giây (8 phút) và sau đó đi vào chế độ Driving Mode. Ở đây, ID và vị trí được phát hiện nếu receiver ở chế độ Parking Supervision Mode (20 phút sau khi tắt máy).
⑧Driving Mode → Interim Mode: Trong chế độ Driving Mode, cảm biến gửi tín hiệu RF tới receiver trong khoảng thời gian 1 phút. Nếu xe dừng lại trong khi lái xe, cảm biến đi vào chế độ Interim Mode.
⑨Interim Mode → Driving Mode: Nếu cảm biến phát hiện chuyển động sau khi xe dừng lại lâu hơn 15 phút, nó vào chế độ Driving Mode.
Sự phối hợp các chế độ phức tạp là để bảo vệ pin trong của cảm biến. Cảm biến không hoạt động khi xe dừng. Khi cảm biến gia tốc nội phát hiện tốc độ vượt quá 5G (20km/h), cảm biến giám sát điều kiện của lốp xe và gửi các tín hiệu RF tới receiver.
2.3 Initiator
2.3.1 Thành phần Initiator
Initiator được sử dụng để tự động cảm nhận áp lực lốp xe, vị trí và đặc trưng trên các dòng TPMS cao. Initiator thường nằm phía trên mỗi bánh xe, ở bánh xe dự phòng và một xe có thể có 2-4 Initiator tùy thuộc vào mô hình.
VG có ba Initiator (phía trước bên trái, bên phải phía trước, và ngay phía sau). Những Initiator được kết nối để nhận TPMS thông qua dây dẫn (điện áp 12V và đường truyền LIN).
Chức năng Initiator để kết nối TPMS receiver với các cảm biến áp suất lốp xe và do đó không yêu cầu điều chỉnh đặc biệt khi thay thế. Initiator giao tiếp với cảm biến áp suất sử dụng tín hiệu tần số thấp (LF, 12KHz) và đôi khi được gọi là Initiator tần số thấp (LFI).
2.4 Receiver
Receiver thực hiện thông báo đèn, đầu vào là tín hiệu tốc độ xe, chức năng chẩn đoán và nhận tín hiệ...
Download Đề tài Cảm biến áp suất lốp miễn phí
1.1 Tổng quan
TPMS là một hệ thống cảnh báo áp suất lốp. TPMS có thể được chia thành hai loại sau đây, tùy thuộc vào đặc điểm của chúng:
1.1.1. Phương pháp gián tiếp
Trong phương pháp này, hệ thống nhận được tín hiệu cảm biến tốc độ bánh xe và gián tiếp tính toán áp suất lốp xe bằng cách đo những thay đổi trong các tín hiệu. Đối với hệ thống này áp suất lốp xe thực tế có thể bị sai lệch và phần nào kém chính xác so với phương pháp trực tiếp. Điều kiện đường xá khắc nghiệt (off-road, đường xá không trải nhựa, .) lại càng khó nhận biết áp lực chính xác với hệ thống này. Vì lý do này, phương pháp gián tiếp là hầu như không sử dụng ngày nay.
1.1.2 Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này đo áp suất lốp trực tiếp từ các lốp xe bằng cách sử dụng các cảm biến áp suất được gắn trên các lốp xe. Chi phí nhiều hơn so với phương pháp gián tiếp, nhưng chính xác và ổn định hơn rất nhiều. Vì lý do này, phần lớn sản xuất ô tô lớn đang sử dụng phương pháp này. VG cũng có tính năng như một TPMS trực tiếp.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
TPMS (Tire Pressure Monitoring System)1. Tổng quan TPMS
1.1 Tổng quan
TPMS là một hệ thống thông báo áp suất lốp. TPMS có thể được chia thành hai loại sau đây, tùy thuộc vào đặc điểm của chúng:
1.1.1. Phương pháp gián tiếp
Trong phương pháp này, hệ thống nhận được tín hiệu cảm biến tốc độ bánh xe và gián tiếp tính toán áp suất lốp xe bằng cách đo những thay đổi trong các tín hiệu. Đối với hệ thống này áp suất lốp xe thực tế có thể bị sai lệch và phần nào kém chính xác so với phương pháp trực tiếp. Điều kiện đường xá khắc nghiệt (off-road, đường xá không trải nhựa, ...) lại càng khó nhận biết áp lực chính xác với hệ thống này. Vì lý do này, phương pháp gián tiếp là hầu như không sử dụng ngày nay.
1.1.2 Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này đo áp suất lốp trực tiếp từ các lốp xe bằng cách sử dụng các cảm biến áp suất được gắn trên các lốp xe. Chi phí nhiều hơn so với phương pháp gián tiếp, nhưng chính xác và ổn định hơn rất nhiều. Vì lý do này, phần lớn sản xuất ô tô lớn đang sử dụng phương pháp này. VG cũng có chức năng như một TPMS trực tiếp.
1.2 So sánh các thông số kỹ thuật
Low-Line
High-Line
1.3 So sánh các chức năng
Low-Line
High-Line
- thông báo đèn bật khi áp suất lốp ở một trong bốn bánh xe giảm xuống.- thông báo áp suất lốp thông báo đèn (không có thể chỉ ra đó lốp xe)- Đèn báo- Truyền thông: CAN
thông báo đèn bật khi áp suất lốp ở một trong bốn bánh xe giảm xuống.- Có thể chỉ ra các lốp xe.- thông báo áp suất lốp
Đèn báo (có thể chỉ ra lốp xe)- Đèn báo- Truyền thông: CAN
Có nhiều nhà sản xuất TPMS, nhưng VG Continental là TPMS cao. Sự khác biệt giữa TPMS thấp và cao là khả năng chỉ ra những áp lực của lốp xe bất thường và sử dụng của người chế tạo. Nếu một trong các lốp xe có áp suất thấp, dòng TPMS cao thông báo cho người lái xe chính xác của áp lực lốp xe cần chú ý thông qua một hệ thống cảnh báo, trong khi TPMS thấp chỉ có thể thông báo cho người lái xe là một trong các lốp xe có áp suất thấp.
2. Thành phần của hệ thống
2.1 Thành phần chính
2.1.1 ECU TPMS
ECU TPMS giao tiếp với Initiator để truyền tải và phân tích dữ liệu áp suất lốp xe từ các cảm biến.
2.1.2 Initiator
Initiator nhận các tín hiệu từ ECU TPMS và gửi các tín hiệu LF cảm biến áp suất để hệ thống có thể thực hiện dò tìm tự động. Các cảm biến áp suất nhận những tín hiệu LF và phản hồi tín hiệu xác nhận LF, trong đường truyền RF.
2.1.3 Cảm biến áp suất lốp
Lắp bên trong vành xe, cảm biến áp suất lốp đọc áp suất lốp, nhiệt độ lốp xe, tăng tốc, điện áp pin và truyền các dữ liệu đã đọc đến ECU.
2.2 Cảm biến áp suất lốp
2.2.1 Thành phần cảm biến bánh xe
Cảm biến trọng lượng 36g và được gắn vào vành bánh xe. Cảm biến không đặt ở lốp dự phòng. Cảm biến có chức năng một pin nhỏ có thể cung cấp năng lượng cho các cảm biến trong khoảng mười năm.
Cảm biến này cũng có chức năng nhận LF (tần số thấp) tín hiệu từ Initiator để xác định vị trí tự động. Cảm biến đọc áp suất lốp, nhiệt độ, tỷ lệ tăng tốc, và điện áp pin và gửi thông tin này đến ECU TPMS thông qua tín hiệu RF, cùng với ID của cảm biến tương ứng. Cảm biến đo và gửi dữ liệu ở các pha khác nhau để kéo dài tuổi thọ pin cảm biến. Đặc điểm kỹ thuật xe trong nước, cảm biến truyền thông tin tại tần số 433MHz và nhận tín hiệu 12KHz LF từ Initiator. Mỗi bộ cảm biến có một mã số duy nhất, để đăng ký ID cảm biến mỗi khi nó được thay thế hay thay đổi vị trí của lốp xe. Cảm biến không kết nối với bất kỳ hệ thống nào bằng dây dẫn và không thể chẩn đoán đối với các công cụ chẩn đoán có sẵn. Chẩn đoán TPMS đòi hỏi phải sử dụng một công cụ kích thích riêng biệt của TPMS, giao tiếp với các cảm biến không dây để đọc các giá trị ID. Khi giao tiếp với receiver và TPMS Exciter, cảm biến sử dụng tín hiệu RF (tần số vô tuyến).
Category
Test
Parking
First Block
Driving
Interim
LFI Comm.
1 sec
16 secs
Exciter Comm.
1 sec
32 secs
32 secs
RF Transmission Conditions
Duration
16 secs
13 hours
16 secs
64 secs
Condition
>5G
>5G
>5G
Misc.
1psi variance between last reading sent to the receiver and the current pressure reading results in 22-second interval RF transmission at 5G.
2.2.2 Các chế độ cảm biến áp suất lốp
①Test Mode: chế độ này Mobis cung cấp một áp suất lốp mới từ cảm biến áp suất lốp xe. Trong chế độ này, cảm biến thức dậy vào khoảng 1s và không truyền tín hiệu RF.
②Test Mode → Parking Mode: Chuyển đổi từ Test Mode → Parking Mode đòi hỏi phải phát hiện 20km/h tốc độ tăng tốc hơn 4 phút.
③Parking Mode → First Block Mode: Trong chế độ Parking Mode, cảm biến gửi tín hiệu RF 13 giờ một lần. Nếu tốc độ đọc là trên 20km/h, cảm biến đi vào chế độ First Block Mode.
④First Block Mode → Interim Mode: Trong chế độ First Block Mode, cảm biến sẽ phát ra tín hiệu RF mỗi 16 giây và đi vào chế độ Interim Mode nếu xe dừng lại hơn 8 phút.
⑤Interim Mode → First Block Mode: Trong chế độ Interim Mode, cảm biến không gửi tín hiệu RF. Nếu cảm biến phát hiện chuyển động xe trong vòng 15 đến 30 phút, nó vào chế độ First Block Mode.
⑥Interim Mode → Parking Mode: Nếu xe dừng lại hơn 15 phút, cảm biến đi vào chế độ Parking Mode.
⑦First Block Mode → Driving Mode: cảm biến gửi 30 tín hiệu RF trong khoảng thời gian 16 giây (8 phút) và sau đó đi vào chế độ Driving Mode. Ở đây, ID và vị trí được phát hiện nếu receiver ở chế độ Parking Supervision Mode (20 phút sau khi tắt máy).
⑧Driving Mode → Interim Mode: Trong chế độ Driving Mode, cảm biến gửi tín hiệu RF tới receiver trong khoảng thời gian 1 phút. Nếu xe dừng lại trong khi lái xe, cảm biến đi vào chế độ Interim Mode.
⑨Interim Mode → Driving Mode: Nếu cảm biến phát hiện chuyển động sau khi xe dừng lại lâu hơn 15 phút, nó vào chế độ Driving Mode.
Sự phối hợp các chế độ phức tạp là để bảo vệ pin trong của cảm biến. Cảm biến không hoạt động khi xe dừng. Khi cảm biến gia tốc nội phát hiện tốc độ vượt quá 5G (20km/h), cảm biến giám sát điều kiện của lốp xe và gửi các tín hiệu RF tới receiver.
2.3 Initiator
2.3.1 Thành phần Initiator
Initiator được sử dụng để tự động cảm nhận áp lực lốp xe, vị trí và đặc trưng trên các dòng TPMS cao. Initiator thường nằm phía trên mỗi bánh xe, ở bánh xe dự phòng và một xe có thể có 2-4 Initiator tùy thuộc vào mô hình.
VG có ba Initiator (phía trước bên trái, bên phải phía trước, và ngay phía sau). Những Initiator được kết nối để nhận TPMS thông qua dây dẫn (điện áp 12V và đường truyền LIN).
Chức năng Initiator để kết nối TPMS receiver với các cảm biến áp suất lốp xe và do đó không yêu cầu điều chỉnh đặc biệt khi thay thế. Initiator giao tiếp với cảm biến áp suất sử dụng tín hiệu tần số thấp (LF, 12KHz) và đôi khi được gọi là Initiator tần số thấp (LFI).
2.4 Receiver
Receiver thực hiện thông báo đèn, đầu vào là tín hiệu tốc độ xe, chức năng chẩn đoán và nhận tín hiệ...