what_love_k
New Member
Download miễn phí Can thiệp nội mạch điều trị túi phình động mạch não
Can thiệp nội mạch được thực hiện sử dụng máy chụp mạch máu kỹ thuật số
xóa nền DSA (Digital Subtraction Angiography), thủ thuật được thực hiện trên
bệnh nhân được gây tê tại chỗ vùng bẹn và tiền mê đối với túi phình chưa vỡ
(bệnh nhân tỉnh hợp tác tốt) hay bệnh nhân được gây mê trong trường hợp túi
phình đã vỡ. Các ống thông được luồn từ động mạch đùi lên đến vị trí trong
lòng túi phình và tùy theo đặc điểm hình thái của túi phình mà các v ật liệu gây
tắc là coils hay bóng được sử dụng để bít túi phình và trong những trường hợp
đặt biệt như túi phình cổ rộng hay phình bóc tách thì cần sử dụng khung
giá đỡ (Stent) để điều trị, hay áp dụng kỹ thuật dùng bóng hổ trợ (balloon
remodelling). Bệnh nhân được chụp kiểm tra ngay sau khi kết thúc thủ thuật,
theo dõi tái khám bệnh nhân sau can thiệp 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, một năm.
Chụp MRI, MRA hay DSA kiểm tra lại sau 3-6 tháng cho những trường hợp
túi phình lớn cổ rộng (cổ từ 4mm) nếu túi phình tái thông sẽ can thiệp thêm.
Tất cả bệnh nhân sẽ được đánh giá về lâm sàng lúc xu ất viện theo thang điểm
GOS(Glasgow Outcome Scale).
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-12-26-can_thiep_noi_mach_dieu_tri_tui_phinh_dong_mach_nao.9hAGzVrGpw.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-50832/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ TÚI PHÌNH ĐỘNG MẠCH NÃOTÓM TẮT
Giới thiệu chung:Túi phình động mạch não là nguyên nhân chính gây xuất
huyết khoang dưới nhện.Trải qua khoảng 20 năm từ khi phương pháp đặt Coils
trong lòng mạch ra đời đến nay phương pháp này đã trở nên phổ biến và được
ứng dụng rộng rãi vì sự hiệu quả, an toàn, và ít xâm lấn. Ở nước ta đây là
phương pháp điều trị khá mới, chỉ được thực hiện tại vài trung tâm do đó việc
nghiên cứu để ứng dụng phương pháp này là điều rất cần thiết.
Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học của túi
phình động mạch não. Đánh giá kết quả sau can thiệp nội mạch điều trị túi
phình động mạch não về tính hiệu quả và độ an toàn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tương nghiên cứu: tất cả những
bệnh nhân được chẩn đoán túi phình động mạch não được điều trị bằng phương
pháp can thiệp nội mạch từ tháng 10 năm 2004 đến tháng 11 năm 2008 tại
BVĐHYD TPHCM. Đây là nghiên cứu tiền cứu cắt ngang.
Phương pháp thực hiện và phương tiện: can thiệp nội mạch được thực hiện
sử dụng máy chụp mạch máu kỹ thuật số xóa nền DSA (Digital Subtraction
Angiography), các ống thông được luồn từ động mạch đùi lên đến vị trí động
mạch bị phình và tùy theo đặc điểm hình thái của túi phình mà các vật liệu gây
tắc là coil hay bóng được sử dụng để bít túi phình và trong những trường hợp
đặt biệt như túi phình cổ rộng hay phình bóc tách thì cần sử dụng khung
giá đỡ (Stent) để điều trị.
Kết quả nghiên cứu: Trong 60 trường hợp được điều trị: vị trí túi phình ở tuần
hoàn trước chiếm 81,7% tuần hoàn sau 18,3% (11 ca). Túi phình sau chấn
thương chiếm 10%. Túi phình đã vỡ gây xuất huyết dưới nhện chiếm 76,6%
(46), phình chưa vỡ 23,3% trong đó túi phình lớn tạo huyết khối lấp mạch
não là 3,3%. Can thiệp bít được hoàn toàn túi phình trong 96,6%, không đưa
được ống thông vào lòng túi phình trong 1,7%, tai biến liệt nữa người sau thủ
thuật là 3,3%, tỉ lệ tử vong liên quan đến thủ thuật là 1,7%.
Kết luận: Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện can thiệp nội mạch điều trị túi
phình động mạch não, qua 60 trường hợp được thực hiện tại BVĐHYD cho
thấy đây là phương pháp điều trị đem lại hiệu quả cao, ít xâm lấn, nhất là trong
những trường hợp túi phình không thuận lợi cho phẫu thuật thì phương pháp
này nên được chọn lựa đầu tiên.
ABSTRACT
ENDOVASCULAR TREATMENT OF CEREBRAL ANEURYSM REVIEW
60 CONSECUTIVE CASES IN MEDICAL UNIVERSITY CENTER OF
HCM CITY
Tran Chi Cuong, Tran Trieu Quoc Cuong,Vo Tan Son, Huynh Hong Chau
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 244 - 251
Introduction: Cerebral aneur ysm is one of the most common causes of
subarachnoid hemorrhage. During the last 20 years from the first coilling
procedure was performed to nowadays it has been more and more spreader
because of its efficacy, safety and less invasive procedure. In Vietnam this kind
of treatment is not common, it has been performed in only some hospitals, so it
is very important to understand and evaluate for further practice.
Objectives: To analyze clinical presentation and diagnostic imaging of cerebral
aneurysm. To evaluate the efficacy, safety and result after endovascular
treatment of cerebral aneurysm.
Method: Population: All of the patient who was diagnosed cerebral aneurysm
admitted to University Medical Center of HCM city and underwent
endovascular treatment procedure from October 2004 to November 2008. This
is a prospective study.
Procedure abstract and equipment: Endovascular procedure was performed
using a Digital Subtraction Angiography (DSA) system, after transfemoral
artery approach catheters were advanced over a guidewire to the aneurysm and
depending on aneurysm specifically which will be required coil embolization
alone or balloon-assisted remodeling or stent-assisted coilling for wide-neck
aneurysm and dissecting aneurysm.
Result: Among 60 cases: aneurysm was found in anterior circulation in 81.7%
and posterior circulation in 18.3%. Traumatic aneurysm accounts for 10%.
Rupture aneurysm causes subarachnoid hemorrhage (SAH) 76.6%, unruptured
aneurysm 23.3% in which giant and thrombus aneurysm causes embolus stroke
in 3.3%. The aneurysm was totally occluded in 96.6%, failed to approach the
aneurysm 1.7%, hemiparesis complication 3.3%, mortality rate was 1.7%.
Conclusion: After more than 3 years, we have developed endovascular
procedure for treatment of cerebral aneurysm, experienced 60 cases were
performed in University Medical Center of HCM city, showing us this is a
highly efficacy procedure with less invasive, especially in the aneurysm case of
high risk for surgery, endovascular procedure should be indicated as a first
choice.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê ở Mỹ mổi năm có khoảng 25.000-30.000 ca xuất huết dưới nhện
không do chấn thương, trong đó khoảng 80% là do vỡ túi phình mạch máu não.
Hai tác giả Inagawa và Hirano giải phẫu 10.259 xác từ 1951-1987 họ tìm thấy
84 trường hợp có túi phình mạch máu não với 102 túi phình, và ước tính tỉ lệ
túi phình mạch máu não trong dân số là 8/1000 dân. Theo hội đột quỵ Hoa Kỳ
thì 1,5-5% dân số có túi phình hay sẽ mắc bệnh túi phình mạch máu não,
nhưng phần lớn các trường hợp không phát hiện được lúc túi phình chưa vỡ.
Nguy cơ vỡ túi phình hàng năm theo thống kê là từ 0,5-3%. Ở nước ta vỡ túi
phình mạch máu não gây xuất huyết dưới nhện cũng là bệnh lý khá thường gặp,
tuy nhiên việc chẩn đoán xác định, điều trị kịp thời và triệt để túi phình còn là
một khó khăn lớn tại đa số các bệnh viện. Ngày nay bên cạnh điều trị hồi sức
nội khoa sau xuất huyết dưới nhện việc chẩn đoán xác định túi phình bằng chụp
mạch máu và điều trị triệt để túi phình càng sớm càng tốt là nguyên tắc chung
trong thực hành.
Có hai phương pháp điều trị túi phình mạch máu não: phẫu thuật kẹp túi phình
và can thiệp nội mạch bít túi phình. Phẫu thuật là phương pháp được thực hiện
từ lâu, tuy nhiên có nhiều trường hợp túi phình không thể phẫu thuật được như
vị vị trí sâu, không bộc lộ được cổ, bệnh nhân nhiều nguy cơ cho phẫu thuật:
tiểu đường, quá lớn tuổi…thì phẫu thuật không thực hiện được. Ngày nay với
sự phát triển của kỹ thuật can thiệp nội mạch qua khoảng 20 năm hình thành và
phát triển trên thế giới phương pháp này đang được ứng dụng rộng rãi tại hầu
hết các quốc gia vì sự hiệu quả cao, ít xâm lấn và an toàn. Do đó việc nghiên
cứu ứng dụng và phổ biến phương pháp này ở nước ta là điều hết sức cần thiết
để điều trị bệnh nhân tốt hơn.
Tổng quan bệnh phình động mạch não
Phân loại
Túi phình mạch máu não được phân loại dựa vào: hình thái, kích thước, vị trí,
và nguyên nhân(16). Về hình thái, túi phình được phân thành 3 loại: túi phình
dạng túi (saccular), dạng hình thoi (fusiform) và dạng bóc tách (dissecting). Túi
phình có thể là đơn độc trong 70-75% trường hợp, hay có thể nhiều hơn một túi
trong khoảng 25-30%. Vị trí túi phình thường gặp ở đa giác Willis(Error! Reference
source not found.), khoảng 85% nằm ở tuần hoàn trước, 15% thuộc tuần hoàn
sau(Error! Reference source not found.).Về kích thước: dưới 5mm là túi phình nhỏ, trên
25mm là túi phình khổng lồ. Có nhiều giả thuyết được đặt ra trong sinh bệnh
học của sự hình thành và phát triển của túi phình như: sự gia tăng áp lực động
mạch trong tăng huyết á...