phamphuonglinh_abm
New Member
Download miễn phí Tiểu luận Chế độ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Trong cuộc sống, nhiều người do những nguyên nhân khác qua chủ quan lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, cần sự giúp đỡ của người khác. Trong những trường hợp như vậy, việc xác định ai là người có trách nhiệm trợ giúp luôn là vấn đề có ý nghĩa. Để củng cố sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội, chế định cấp dưỡng trong Luật hôn nhân gia đình ( HN-GĐ) góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề này. Trong Luật HN-GĐ năm 2000 lần đầu tiên các quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình được điều chỉnh tương đối toàn diện và các quy phạm điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng được quy định thành một chương độc lập.
I. Những vấn đề lí luận về cấp dưỡng
1. Khái niệm cấp dưỡng
Luật HN-GĐ Việt Nam năm 2000 đã quy định cấp dương như sau:“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hay tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thông hay nuôi dưỡng trong trường hợp người đó chưa thành niên, là người đã thành mà không có khả năng lao động và không có tàu sản để tự nuôi mình, là nhười gặp khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này”( Điều 8)
Cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lí được sử dụng trong pháp luật hôn nhân gia đình để thể hiện mối quan hệ ràng buộc về quyên và nghĩa vụ giữa những người không chung sống với nhau nhưng đang có hay đã có quan hệ gia đình trong việc đảm bảo cuộc sống cho những người chưa thành niên, những người đã thành niên nhưng trong tình trạng mất hay bị suy giảm sút khả năng lao động, không có thu nhấp hay không có tài sản hay tuy có nhưng không dủ để đảm bảo cuộc sống của mình. Cấp dưỡng còn là biện pháp chế tài đối với người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Cấp dưỡng là hình thức biểu hiện bên ngoài của một nghĩa vụ pháp lí, nội dung của nó bao gồm: Quyền cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng, chủ thể của quan hệ cấp dưỡng và khách thể của quan hệ cấp dưỡng.
2. Ý nghĩa của chế định cấp dưỡng
Cấp dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, tư tưởng của mỗi cá nhân cũng như trong quan hệ hôn nhân. Chế định cấp dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố chức năng của gia đình. Gia đình trong thời kì đổi mới ở nước ta có sự đan xen giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại. Các chức năng cơ bản của gia đình vẫn là tái sản xuất ra con người, tái sản xuất ra sức lao động thông qua việc nuôi dưỡng chăm sóc các thành viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng trong luật HN-GD đã góp phần củng cố chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng người chưa thành niên người cao tuổi, người không có khả năng lao động trong gia đình, là cơ sở pháp lí cần thiết để đảm bảo cho con cái được nuôi dạy tốt trong cả những hoàn cảnh đặc biệt như cha mẹ li hôn, li thân hay người mẹ sinh con ngoài giá thú…Chế định cấp dưỡng đã có đóng góp đáng kể vào việc củng cố chức năng xã hội cơ bản của gia đình, giúp cho gia đình hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng mà xã hội và tự nhiên giao cho mà không một thiết chế xá hội nào có thể thay thế được.
Chế định cấp dưỡng góp phần củng cố mối quan hệ giũa các thành viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng góp phần tăng cường sự gắn bố giữa các thành viên trong gia đình, nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự….với quan điểm dành những gì đẹp nhất cho trẻ em, tạo điều kiện cho người cao tuổi sống vui, khỏe, có ích và người tàn tất được hòa nhập cùng cộng đồng. Nhờ đó quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng được củng cố và gắn bó bền chặt. Ngoài ra, các chế định về cấp dưỡng còn là cơ sở pháp lí nhằm gắn kết các thành viên trong gia đình trong một cộng đồng trách nhiệm. Khi mà các giá trị đạo đức bị thay đổi thì các quy phạm pháp luậtt sẽ là dây xích gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau, làm thức tỉnh ở họ ý thức trách nhiệm mà trước hết là trách nhiệm đối với những người có quan hệ gia đình.
Chế định cấp dưỡng có ý nghĩa trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống của mọi thành viên trong xã hội. Các quy định trong chế định cấp dưỡng có sự đan xen với các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống gia đình. Các quy định đó thấm sâu vào tư tưởng của người Việt Nam và nhanh chóng trở thành xử sự chung của đông đảo người dân Việt Nam. Qua đó giáo dục tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, sự đùm bọc sẻ chia khi gặp khó khăn, hoạn nạn không chỉ những người có quan hệ gia đình mà phát triển rộng ra toàn xã hội. Chế định cấp dưỡng đã góp phần tôn vinh các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam, thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật Việt Nam.
II. Chế định cấp dưỡng trong Luật HN-GD năm 2000.
1. Những quy định chung về cấp dưỡng trong Luật HN-GD Việt Nam năm 2000.
1.1 Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng.
Để xác lập quan hệ cấp dưỡng, hay cụ thể hơn là phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng cần có những căn cứ nhất định, đó là:
- Giữa các chủ thể của quan hệ cấp dưỡng phải có quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hay đã từng có quan hệ hôn nhân.
+ Về quan hệ huyết thống: Luật HN-GĐ quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha me và con, giũa anh chị em với nhau và giữa ông bà với cháu. Để xác định mối quan hệ huyết thống phải bắt đầu từ việc xác định quan hệ giữa cha, me và con phát sịnh trên sự kiện sinh đẻ. Từ quan hệ cha, me và con mà suy ra quan hệ giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em với nhau…
+ Về quan hệ nuôi dưỡng (nuôi con nuôi): Việc nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con, giữa người nhận nuôi con nuôi (cha mẹ nuôi) và người được nhận làm con nuôi (con nuôi). Theo Luật HN-GĐ năm 2000 thì việc nhận nuôi con nuôi phải tuân thủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi và phải đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cha mẹ nuôi và con nuôi có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi không sống chung hay một bên trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng. Sự kiện nuôi con nuôi chỉ làm phát sinh quan hệ phát luật giữa cha me nuôi và con nuôi chứ không làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa người con nuôi với các thành viên khác trong giá đình của cha, mẹ nuôi. Do đó không có quan hệ ông bà và cháu nuôi hay chị em nuôi
+ Về quan hệ hôn nhân: Luật HN-GĐ năm 2000 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn (Điều 60). Đây là nghĩa vụ phát sinh giữa những người đã từng có quan hệ hôn nhân. Do vậy, chỉ những người tồn tại hôn nhân hợp pháp thì khi li hôn mới có quyều và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo quy định của pháp luật.
- Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người túng thiếu khó khăn. Cấp dưỡng nhằm đảm bảo cuộc sống với mức tối thiểu của người được cấp dưỡng.
- Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng vì những hoàn cảnh nhất định không thể trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người kia, do đó người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp tiền hay những tài sản nhất định (như lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men…) để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, bảo đảm sự sống còn của người đó.
- Người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ có thể thực ủhiện được khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng kinh tế đủ để đảm bảo cuộc sống chính mình. Ngĩa vụ cấp dưỡng phỉa căn cứ vào khả năng, thu nhập thực tế của ngườu có nghĩa vụ cấp dưỡng.
1.2. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 61 Luật HN-GĐ năm 2000 thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Người được cấp dưỡng đã là thành niên hay có khả năng lao động
- Người được cấp dưỡng có thu nhập hay tài sản để tự nuôi mình
- Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi
- Người được cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng
- Người được cấp dưỡng hay người có nghĩa vụ cấp dưỡng chết
- Bên được cấp dưỡng sau khi li hôn đã kết hôn với người khác
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trong từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của các bên, trên cơ sở bảo vệ quyền và nghĩa vụ chính đáng của người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
* Thủ tục chấm dứt cấp dưỡng: Trong các trường hợp 3,4,5,6, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chấm dứt một cách đương nhiên. Trong các trường hợp còn lại, sẽ rất khó nếu các bên chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận mặc nhiên rồi sau đó một thời gian, người có quyền được cấp dưỡng lại yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trở lại, thậm chí, cấp dưỡng cả cho thời gian giữa ngày thỏa thuận mặc nhiên và ngày yêu cầu cấp dưỡng lại. Nói chung, thực tiễn giao dịch thừa nhận khái niệm cấp dưỡng không liên tục: nếu đến hạn cấp dưỡng mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ và người được cấp dưỡng không yêu cầu mà cũng không nêu lý do, thì có thể coi như người được cấp dưỡng không có nhu cầu; đến hạn kế tiếp, người được cấp dưỡng có yêu cầu, thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải đáp ứng, nhưng người được cấp dưỡng chỉ có quyền đòi phần cấp dưỡng tương ứng với kỳ hạn đó chứ không thể đòi cả phần cấp dưỡng của kỳ hạn trước đó (mà mình đã không đòi).
Nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi chấm dứt, vẫn có thể được xác lập lại một khi lại có một bên lâm vào cảnh túng thiếu và bên kia có khả năng. Nhưng quy tắc này không áp dụng cho trường hợp người được cấp dưỡng là vợ hay chồng đã ly hôn và đã kết hôn với người khác.
MỤC LỤC
Trang
I. Những vấn đề lí luận về cấp dưỡng 1
1. Khái niệm cấp dưỡng 1
2. Ý nghĩa của chế định cấp dưỡng 1
II. Chế định cấp dưỡng trong Luật HN-GD năm 2000 2
1. Những quy định chung về cấp dưỡng trong Luật HN-GD Việt Nam năm 2000 2
1.1 Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng 2
1.2. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng 4
1.3. Mức cấp dưỡng và cách thực hiện cấp dưỡng 5
a. Mức cấp dưỡng 5
b. cách thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 5
1.4. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 6
1.5 Đảm bảo thực hiện cấp dưỡng 6
2. Cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình 7
2.1. Cấp dưỡng của cha mẹ đối với con 7
2.2. Cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ 10
2.3. Cấp dưỡng giữa anh, chị, em 11
2.4. Cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu 13
2.5. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng 14
III. Hoàn thiện chế độ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Trong cuộc sống, nhiều người do những nguyên nhân khác qua chủ quan lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, cần sự giúp đỡ của người khác. Trong những trường hợp như vậy, việc xác định ai là người có trách nhiệm trợ giúp luôn là vấn đề có ý nghĩa. Để củng cố sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội, chế định cấp dưỡng trong Luật hôn nhân gia đình ( HN-GĐ) góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề này. Trong Luật HN-GĐ năm 2000 lần đầu tiên các quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình được điều chỉnh tương đối toàn diện và các quy phạm điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng được quy định thành một chương độc lập.
I. Những vấn đề lí luận về cấp dưỡng
1. Khái niệm cấp dưỡng
Luật HN-GĐ Việt Nam năm 2000 đã quy định cấp dương như sau:“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hay tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thông hay nuôi dưỡng trong trường hợp người đó chưa thành niên, là người đã thành mà không có khả năng lao động và không có tàu sản để tự nuôi mình, là nhười gặp khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này”( Điều 8)
Cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lí được sử dụng trong pháp luật hôn nhân gia đình để thể hiện mối quan hệ ràng buộc về quyên và nghĩa vụ giữa những người không chung sống với nhau nhưng đang có hay đã có quan hệ gia đình trong việc đảm bảo cuộc sống cho những người chưa thành niên, những người đã thành niên nhưng trong tình trạng mất hay bị suy giảm sút khả năng lao động, không có thu nhấp hay không có tài sản hay tuy có nhưng không dủ để đảm bảo cuộc sống của mình. Cấp dưỡng còn là biện pháp chế tài đối với người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Cấp dưỡng là hình thức biểu hiện bên ngoài của một nghĩa vụ pháp lí, nội dung của nó bao gồm: Quyền cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng, chủ thể của quan hệ cấp dưỡng và khách thể của quan hệ cấp dưỡng.
2. Ý nghĩa của chế định cấp dưỡng
Cấp dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, tư tưởng của mỗi cá nhân cũng như trong quan hệ hôn nhân. Chế định cấp dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố chức năng của gia đình. Gia đình trong thời kì đổi mới ở nước ta có sự đan xen giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại. Các chức năng cơ bản của gia đình vẫn là tái sản xuất ra con người, tái sản xuất ra sức lao động thông qua việc nuôi dưỡng chăm sóc các thành viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng trong luật HN-GD đã góp phần củng cố chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng người chưa thành niên người cao tuổi, người không có khả năng lao động trong gia đình, là cơ sở pháp lí cần thiết để đảm bảo cho con cái được nuôi dạy tốt trong cả những hoàn cảnh đặc biệt như cha mẹ li hôn, li thân hay người mẹ sinh con ngoài giá thú…Chế định cấp dưỡng đã có đóng góp đáng kể vào việc củng cố chức năng xã hội cơ bản của gia đình, giúp cho gia đình hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng mà xã hội và tự nhiên giao cho mà không một thiết chế xá hội nào có thể thay thế được.
Chế định cấp dưỡng góp phần củng cố mối quan hệ giũa các thành viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng góp phần tăng cường sự gắn bố giữa các thành viên trong gia đình, nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự….với quan điểm dành những gì đẹp nhất cho trẻ em, tạo điều kiện cho người cao tuổi sống vui, khỏe, có ích và người tàn tất được hòa nhập cùng cộng đồng. Nhờ đó quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng được củng cố và gắn bó bền chặt. Ngoài ra, các chế định về cấp dưỡng còn là cơ sở pháp lí nhằm gắn kết các thành viên trong gia đình trong một cộng đồng trách nhiệm. Khi mà các giá trị đạo đức bị thay đổi thì các quy phạm pháp luậtt sẽ là dây xích gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau, làm thức tỉnh ở họ ý thức trách nhiệm mà trước hết là trách nhiệm đối với những người có quan hệ gia đình.
Chế định cấp dưỡng có ý nghĩa trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống của mọi thành viên trong xã hội. Các quy định trong chế định cấp dưỡng có sự đan xen với các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống gia đình. Các quy định đó thấm sâu vào tư tưởng của người Việt Nam và nhanh chóng trở thành xử sự chung của đông đảo người dân Việt Nam. Qua đó giáo dục tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, sự đùm bọc sẻ chia khi gặp khó khăn, hoạn nạn không chỉ những người có quan hệ gia đình mà phát triển rộng ra toàn xã hội. Chế định cấp dưỡng đã góp phần tôn vinh các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam, thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật Việt Nam.
II. Chế định cấp dưỡng trong Luật HN-GD năm 2000.
1. Những quy định chung về cấp dưỡng trong Luật HN-GD Việt Nam năm 2000.
1.1 Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng.
Để xác lập quan hệ cấp dưỡng, hay cụ thể hơn là phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng cần có những căn cứ nhất định, đó là:
- Giữa các chủ thể của quan hệ cấp dưỡng phải có quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hay đã từng có quan hệ hôn nhân.
+ Về quan hệ huyết thống: Luật HN-GĐ quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha me và con, giũa anh chị em với nhau và giữa ông bà với cháu. Để xác định mối quan hệ huyết thống phải bắt đầu từ việc xác định quan hệ giữa cha, me và con phát sịnh trên sự kiện sinh đẻ. Từ quan hệ cha, me và con mà suy ra quan hệ giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em với nhau…
+ Về quan hệ nuôi dưỡng (nuôi con nuôi): Việc nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con, giữa người nhận nuôi con nuôi (cha mẹ nuôi) và người được nhận làm con nuôi (con nuôi). Theo Luật HN-GĐ năm 2000 thì việc nhận nuôi con nuôi phải tuân thủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi và phải đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cha mẹ nuôi và con nuôi có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi không sống chung hay một bên trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng. Sự kiện nuôi con nuôi chỉ làm phát sinh quan hệ phát luật giữa cha me nuôi và con nuôi chứ không làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa người con nuôi với các thành viên khác trong giá đình của cha, mẹ nuôi. Do đó không có quan hệ ông bà và cháu nuôi hay chị em nuôi
+ Về quan hệ hôn nhân: Luật HN-GĐ năm 2000 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn (Điều 60). Đây là nghĩa vụ phát sinh giữa những người đã từng có quan hệ hôn nhân. Do vậy, chỉ những người tồn tại hôn nhân hợp pháp thì khi li hôn mới có quyều và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo quy định của pháp luật.
- Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người túng thiếu khó khăn. Cấp dưỡng nhằm đảm bảo cuộc sống với mức tối thiểu của người được cấp dưỡng.
- Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng vì những hoàn cảnh nhất định không thể trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người kia, do đó người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp tiền hay những tài sản nhất định (như lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men…) để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, bảo đảm sự sống còn của người đó.
- Người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ có thể thực ủhiện được khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng kinh tế đủ để đảm bảo cuộc sống chính mình. Ngĩa vụ cấp dưỡng phỉa căn cứ vào khả năng, thu nhập thực tế của ngườu có nghĩa vụ cấp dưỡng.
1.2. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 61 Luật HN-GĐ năm 2000 thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Người được cấp dưỡng đã là thành niên hay có khả năng lao động
- Người được cấp dưỡng có thu nhập hay tài sản để tự nuôi mình
- Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi
- Người được cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng
- Người được cấp dưỡng hay người có nghĩa vụ cấp dưỡng chết
- Bên được cấp dưỡng sau khi li hôn đã kết hôn với người khác
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trong từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của các bên, trên cơ sở bảo vệ quyền và nghĩa vụ chính đáng của người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
* Thủ tục chấm dứt cấp dưỡng: Trong các trường hợp 3,4,5,6, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chấm dứt một cách đương nhiên. Trong các trường hợp còn lại, sẽ rất khó nếu các bên chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận mặc nhiên rồi sau đó một thời gian, người có quyền được cấp dưỡng lại yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trở lại, thậm chí, cấp dưỡng cả cho thời gian giữa ngày thỏa thuận mặc nhiên và ngày yêu cầu cấp dưỡng lại. Nói chung, thực tiễn giao dịch thừa nhận khái niệm cấp dưỡng không liên tục: nếu đến hạn cấp dưỡng mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ và người được cấp dưỡng không yêu cầu mà cũng không nêu lý do, thì có thể coi như người được cấp dưỡng không có nhu cầu; đến hạn kế tiếp, người được cấp dưỡng có yêu cầu, thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải đáp ứng, nhưng người được cấp dưỡng chỉ có quyền đòi phần cấp dưỡng tương ứng với kỳ hạn đó chứ không thể đòi cả phần cấp dưỡng của kỳ hạn trước đó (mà mình đã không đòi).
Nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi chấm dứt, vẫn có thể được xác lập lại một khi lại có một bên lâm vào cảnh túng thiếu và bên kia có khả năng. Nhưng quy tắc này không áp dụng cho trường hợp người được cấp dưỡng là vợ hay chồng đã ly hôn và đã kết hôn với người khác.
MỤC LỤC
Trang
I. Những vấn đề lí luận về cấp dưỡng 1
1. Khái niệm cấp dưỡng 1
2. Ý nghĩa của chế định cấp dưỡng 1
II. Chế định cấp dưỡng trong Luật HN-GD năm 2000 2
1. Những quy định chung về cấp dưỡng trong Luật HN-GD Việt Nam năm 2000 2
1.1 Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng 2
1.2. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng 4
1.3. Mức cấp dưỡng và cách thực hiện cấp dưỡng 5
a. Mức cấp dưỡng 5
b. cách thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 5
1.4. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 6
1.5 Đảm bảo thực hiện cấp dưỡng 6
2. Cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình 7
2.1. Cấp dưỡng của cha mẹ đối với con 7
2.2. Cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ 10
2.3. Cấp dưỡng giữa anh, chị, em 11
2.4. Cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu 13
2.5. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng 14
III. Hoàn thiện chế độ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links