Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
I.ĐẶT VẤN ĐỀ.
Văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu , có tác động trực tiếp sâu sắc đến hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước. Do đó. Nâng cao chất lượng của văn bản pháp luật được xác định là một trong những biện pháp quan trọng để tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhưng thực tế, rất nhiều văn bản pháp luật khiếm khuyết. Để phát hiện được những văn bản pháp luật khiếm khuyết đó ta cần dựa trên những cơ sở để nhận biết các khiếm khuyết trong văn bản pháp luật.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối những văn bản pháp luật có khiếm khuyết.
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, việc ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết đã xảy ra khá phổ biến cơ nhiều cấp, nhiều ngành. Dựa trên những yêu cầu về chất lượng của văn bản pháp luật, có thể xác định được những cơ sở dưới dây để nhận biết văn bản pháp luật khiếm khuyết, buộc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải có nhiều biện pháp để hoàn thiện chúng trước khi ban hành.
Những dạng khiếm khuyết của văn bản pháp luật:
1.Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị
Trong chế độ ta, nội dung các văn bản pháp luật và phương hướng xây dựng văn bản pháp luật luôn chịu sự chi phối bởi đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam.Vì vậy, nội dung quan trọng được quán triệt trong hầu hết các văn bản pháp luật đó là việc phản ánh kịp thời đường lối, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ từng lĩnh vực.
Văn bản pháp luật được(chủ yếu là văn bản qui phạm pháp luật) ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm khuyết và buộc cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành sử lí. Ngoài ra, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.
2.Văn bản pháp luật không đáp ứng được yêu cầu về pháp lí
a.Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền bao gồm vi phạm thẩm quyền về hình thức và vi phạm thẩm quyền về nội dung.
Văn bản pháp luật vi phạm về hình thức là văn bản có tên gọi không đúng theo qui định của pháp luật hiện hành.
Trước hết, đó là việc cơ quan ban hành văn bản sử dụng hình thức văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của chủ thể khác. Ví dụ: Hội đồng nhân dân ban hành quyết định; ủy ban nhân dân ban hành nghị quyết.
Bên cạnh đó, vi phạm thẩm quyền về hình thức còn thể hiện ở việc sử dụng không đúng vai trò của văn bản đối với công việc được giải quyết, như: Sử dụng công văn, thông báo để đặt ra các quy phạm pháp luật hay ban hành quyết định thay cho lệnh khám nơi cất giữ tang vật vi phạm…
Ngoài ra, trong một số trường hợp cá biệt còn có thể gặp tình trạng các cơ quan nhà nước sử dụng hình thức văn bản không do pháp luật quy định để đặt ra quy định pháp luật, như Ủy ban nhân dân ban hành thông tri.
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định đối với chủ thể đó.
Trước hết, sự vi phạm thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không phụ thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định đối với chủ thể đó.
Trước hết, sư vi phạm thẩm quyền nội dung hể hiện ở việc cơ quan ban hành văn bản pháp luật giải quyết công việc hoàn toàn không phu thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể. Ví dụ: Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc, như: Cục, vụ, viện, văn phòng… ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, văn bản pháp luật vi phạm về thẩm quyền nội dung còn thể hiện trong việc chủ thể ban hành van bản để giải quyết công việc vượt thẩm quyền mà pháp luật quy định đối với chủ thể đó. Ví dụ: Trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng huyện A ra quyết định sử phạt vi phạm hành chính Ông B với mức phạt 15.000.000 đồng ( theo pháp luật, mức phạt tối đa mà Trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng có quyền được áp dụng là 10.000.000 đồng).
b.Văn bản pháp luật có nội dung trái với quy định của pháp luật
Văn bản có nội dung trái với pháp luật là những văn bản có nội dung là những quy phạm hay những mệnh lệnh không đúng với pháp luật hiện hành,vi phạm thẩm quyền ban hành, có nội dung trái Hiến pháp và trái với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, tức là có vi phạm nghiêm trọng tới mức không thể chấp nhận giá trị pháp lý của nó. Có nhiều biểu hiện khác nhau về sự trái pháp luật hiện hành.
Có nhiều biểu hiện khác nhau về sự trái pháp luật trong nội dung của văn bản pháp luật. Cụ thể như:
Thứ nhất, nội dung trái quy định pháp luật hiện hành thể hiên trong việc không viện đẫn hay viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lí của văn bản đó.Ví dụ: Trong quyết định của ủy ban nhân dân tỉnh A về quản lí, khai thác và bảo về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh, phần căn cứ pháp lí chỉ nêu Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân mà không viện dẫn Luật bảo về môi trường là văn bản quy định trực tiếp về thẩm quyền của ủy ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực này.
Thứ hai, nội dung của văn bản pháp luật trái với quy định pháp luật hiện hành thể hiện rõ nét trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với nội dung văn bản quy phạm pháp luạt của cấp trên; văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với các quy phạm pháp luật hiện hành. Ví dụ: Trong Chỉ thị của ủy ban nhân dân thành phố A về cũng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân trên đị bàn thành phố có những quy định: “Giao cấp ủy đảng, chính quyền các huyện, xã, thị trấn có nhiệm vụ phê duyệt đề án, giám sát, giúp đỡ các quỹ tín dụng nhân dân đôn đốc thu nợ, tiến hành điều tra xét xử và thi hành án nhanh chóng…” Các quy định này trái với Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân và ủy ban nhân dân vì tổ chức Đảng, các cơ quan kiểm soát, tòa án…không phải là cấp dưới của ủy ban nhân dân.
Thứ ba, tính bất hợp pháp về nội dung còn thể hiện trong các văn bản áp dụng pháp luật hay văn bản hành chính khi có nội dung trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Quyết định sử phạt vi phạm hành chính có nội dung xử phạt đối với cá nhân về hành vi hay vi phạm hành chính hành vi buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả thực hiện từ trước đó 4 năm trong khi thời hiệu sử phạt là 2 năm. Như vậy là trái với quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Điều 10 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002
Thứ tư, sự trái pháp luật thể hiện ở các mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật mà nó tổ chức thực hiện. Ví dụ: Thông báo về việc cưỡng chế với biện pháp không đúng với nội dung quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
c.Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hay tham gia
Hiện nay, dấu hiệu này rất cần được xem xét trong quá trình xử lí văn bản qui phạm pháp luật. Vì muốn thực hiện tốt các cam kết quốc tế, Việt Nam không chỉ tiền hành việc nội luật hóa mà còn phải rà soát nhằm phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa phù hợp để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế bằng văn bản khác. Ví dụ: theo quy định tại Điều 10 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ những văn bản quy phạm pháp luật mới bắt buộc phải đăng công báo còn các văn bản chỉ đạo điều hành có hiệu lực rộng rãi như công điện, công văn của cơ quan nhà nước ở trung ương không buộc phải đăng công báo nên cơ quan phát hành công báo không có trách nhiệm đăng tải.Nhưng tại Chương VI Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kì lại quy định về tính minh bạch, công khai các luật, quy định và chỉ là các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ còn có cả công văn, công điện do cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền ở trung ương ban hành. Vì vậy, giữa Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật với Chương VI Hiệp định song phương nói trên đã có những quy định không phù hợp với nhau.
Kể từ khi kí kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì, cũng như trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), Việt Nam đã và đang rà soát tất cả các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực thương mại và các lĩnh vực khác có liên quan để đảm bảo tính tương thích, đồng bộ trong quá trình triển khai thực hiện cam kết quốc tế.
Như vậu, nếu văn bản quy phạm pháp luật nào chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt nam kí kết hay tham gia thì đó là lí do để cơ quan có thẩm quyền tiến hành sử lí bằng biện pháp sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ba hành với những văn bản có liện quan đến điều ước quốc tế đó.
d.Văn bản pháp luật có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành
Văn bản pháp luật có thể thức không đúng quy định của pháp luật biểu hiện ở việc thiếu những đề mục cần thiết hay được trình bày các đề mục không đúng quy định của pháp luật, như: Văn bản quy phạm pháp luật không có năm ban hành trong đề mục số, kí hiệu văn bản; văn bản áp dụng pháp luật không có trích yếu; địa danh trong văn bản được viết không đúng (ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh, ngày…tháng…năm…); thể thức không phù hợp với thủ tục thông qua văn bản…
Văn bản pháp luật có thể có sự vi phạm về thủ tục trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay không thực hiện những thủ tục là cơ sở để xác định tính hợp pháp cho văn bản áo dụng pháp luật, như: Không thành lập hội đồng kỉ luật trước khi ra quyết định kỉ luật công chức; không thành lập hội đồng tuyển chọn thẩm phán trước khi ra quyết định bổ nhiệm thẩm phán…
3.Văn bản pháp luật không đáp ứng về yêu cầu khoa học
a.Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội
Đây là những văn bản mà trong đó có các quy định cao hơn hay thấp hơn thực trạng kinh tế - xã hội, không phù hợp với đời sống vật chất và ý thức xã hội, gây cản trở cho tiến trình phát triển của xã hội. Sự không phù hợp có thể chỉ thuộc về một phần nội dung văn bản, cũng có thể là toàn bộ văn bản. Những văn bản pháp luật này thường không có tính khả thi, khó thực hiện trên thực tiễn.
Bên cạnh đó, văn bản pháp luật cũng không đáo ứng yêu cầu về khoa học khi có nội dung không phù hợp với truyền thống đạo đức, thuần phong mĩ tục trong xã hội. Đây chính là biểu hiện của sự không phù hợp giữa pháp luật với đạo đức. pháp luật là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chức năng quản lí xã hội nhưng pháp luật lại không phải là yếu tố duy nhất để điều chỉnh xã hội. Các quy phạm pháp luật xã hội khác như đạo đức, tôn giáo… cũng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do vậy, để đảm bảo tính khả thi cho văn bản pháp luật, trong quá trình ban hành cũng như tổ chức việc thực hiện văn bản pháp luật, trong quá trình ban hành cũng như tổ chức việc thực hiện văn bản pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền cần thể hiện sự dung hòa mối quan hệ giữa pháp luật và các yếu tố trên. Nhưng trên thực tế không phải khi nào chủ thể ban hành văn bản pháp luật cũng thực hiện có hiệu quả yêu cầu này. Vì thế, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với thuần phong mĩ tục truyền thống, đạo đức tốt đẹo của dân tộc cũng dễ dàng xảy ra và làm mất đi tính khả thi của những văn bản đó. Đây cũng là đạng khiếm khuyết cảu văn bản cần được sử lí văn bản pháp luật.
Đông thời, việc không đảm bảo yêu cầu về khoa học của văn bản pháp luật còn thể hiện trong sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí.
Kĩ thuật pháp lí là yếu tố có vai trò khá quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của từng văn bản pháp luật. Tính logic, chặt chẽ về nội dung, đúng quy tắc về ngôn ngữ, phân chia sắp xếp hợp lí chính là những yêu cầu cơ bản của kĩ thuật pháp lí. Sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí của văn bản pháp luật biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, như: Nội dung không đủ để hoàn thiện chủ đề của văn bản; nội dung không tập trung, thống nhất ( tản mạn,vụn vặt); nội dung không rõ ràng, thiếu mạch lạc, thiếu chính xác; việc phận chia, sắp sếp nội dung văn bản không đảm bảo tính logic chặt chẽ; sử dụng ngôn ngữ không chuẩn mực, sử dụng từ ngữ không phù hợp với đặc trưng văn phong pháp lí (từ địa phương, từ lóng, từ hoa mỹ, thừa từ, lặp từ…), câu chữ rườm rà, tối nghĩa, không đủ thành phần ngữ pháp, diễn đạt câu thiếu mạch lạc, rõ ràng, không đảm bảo tính nhất quán, logic… Từ đó, làm cho người đọc khó hiểu hay hiểu theo nhiều cách khác nhau và làm giảm đi tính trang trọng, nghiêm túc cũng như hiệu quả tác động của văn bản pháp luật trong hoạt động giao tiếp, điều hành, quản lý.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
I.ĐẶT VẤN ĐỀ.
Văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu , có tác động trực tiếp sâu sắc đến hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước. Do đó. Nâng cao chất lượng của văn bản pháp luật được xác định là một trong những biện pháp quan trọng để tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhưng thực tế, rất nhiều văn bản pháp luật khiếm khuyết. Để phát hiện được những văn bản pháp luật khiếm khuyết đó ta cần dựa trên những cơ sở để nhận biết các khiếm khuyết trong văn bản pháp luật.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối những văn bản pháp luật có khiếm khuyết.
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, việc ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết đã xảy ra khá phổ biến cơ nhiều cấp, nhiều ngành. Dựa trên những yêu cầu về chất lượng của văn bản pháp luật, có thể xác định được những cơ sở dưới dây để nhận biết văn bản pháp luật khiếm khuyết, buộc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải có nhiều biện pháp để hoàn thiện chúng trước khi ban hành.
Những dạng khiếm khuyết của văn bản pháp luật:
1.Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị
Trong chế độ ta, nội dung các văn bản pháp luật và phương hướng xây dựng văn bản pháp luật luôn chịu sự chi phối bởi đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam.Vì vậy, nội dung quan trọng được quán triệt trong hầu hết các văn bản pháp luật đó là việc phản ánh kịp thời đường lối, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ từng lĩnh vực.
Văn bản pháp luật được(chủ yếu là văn bản qui phạm pháp luật) ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm khuyết và buộc cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành sử lí. Ngoài ra, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.
2.Văn bản pháp luật không đáp ứng được yêu cầu về pháp lí
a.Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền bao gồm vi phạm thẩm quyền về hình thức và vi phạm thẩm quyền về nội dung.
Văn bản pháp luật vi phạm về hình thức là văn bản có tên gọi không đúng theo qui định của pháp luật hiện hành.
Trước hết, đó là việc cơ quan ban hành văn bản sử dụng hình thức văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của chủ thể khác. Ví dụ: Hội đồng nhân dân ban hành quyết định; ủy ban nhân dân ban hành nghị quyết.
Bên cạnh đó, vi phạm thẩm quyền về hình thức còn thể hiện ở việc sử dụng không đúng vai trò của văn bản đối với công việc được giải quyết, như: Sử dụng công văn, thông báo để đặt ra các quy phạm pháp luật hay ban hành quyết định thay cho lệnh khám nơi cất giữ tang vật vi phạm…
Ngoài ra, trong một số trường hợp cá biệt còn có thể gặp tình trạng các cơ quan nhà nước sử dụng hình thức văn bản không do pháp luật quy định để đặt ra quy định pháp luật, như Ủy ban nhân dân ban hành thông tri.
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định đối với chủ thể đó.
Trước hết, sự vi phạm thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không phụ thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định đối với chủ thể đó.
Trước hết, sư vi phạm thẩm quyền nội dung hể hiện ở việc cơ quan ban hành văn bản pháp luật giải quyết công việc hoàn toàn không phu thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể. Ví dụ: Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc, như: Cục, vụ, viện, văn phòng… ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, văn bản pháp luật vi phạm về thẩm quyền nội dung còn thể hiện trong việc chủ thể ban hành van bản để giải quyết công việc vượt thẩm quyền mà pháp luật quy định đối với chủ thể đó. Ví dụ: Trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng huyện A ra quyết định sử phạt vi phạm hành chính Ông B với mức phạt 15.000.000 đồng ( theo pháp luật, mức phạt tối đa mà Trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng có quyền được áp dụng là 10.000.000 đồng).
b.Văn bản pháp luật có nội dung trái với quy định của pháp luật
Văn bản có nội dung trái với pháp luật là những văn bản có nội dung là những quy phạm hay những mệnh lệnh không đúng với pháp luật hiện hành,vi phạm thẩm quyền ban hành, có nội dung trái Hiến pháp và trái với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, tức là có vi phạm nghiêm trọng tới mức không thể chấp nhận giá trị pháp lý của nó. Có nhiều biểu hiện khác nhau về sự trái pháp luật hiện hành.
Có nhiều biểu hiện khác nhau về sự trái pháp luật trong nội dung của văn bản pháp luật. Cụ thể như:
Thứ nhất, nội dung trái quy định pháp luật hiện hành thể hiên trong việc không viện đẫn hay viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lí của văn bản đó.Ví dụ: Trong quyết định của ủy ban nhân dân tỉnh A về quản lí, khai thác và bảo về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh, phần căn cứ pháp lí chỉ nêu Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân mà không viện dẫn Luật bảo về môi trường là văn bản quy định trực tiếp về thẩm quyền của ủy ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực này.
Thứ hai, nội dung của văn bản pháp luật trái với quy định pháp luật hiện hành thể hiện rõ nét trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với nội dung văn bản quy phạm pháp luạt của cấp trên; văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với các quy phạm pháp luật hiện hành. Ví dụ: Trong Chỉ thị của ủy ban nhân dân thành phố A về cũng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân trên đị bàn thành phố có những quy định: “Giao cấp ủy đảng, chính quyền các huyện, xã, thị trấn có nhiệm vụ phê duyệt đề án, giám sát, giúp đỡ các quỹ tín dụng nhân dân đôn đốc thu nợ, tiến hành điều tra xét xử và thi hành án nhanh chóng…” Các quy định này trái với Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân và ủy ban nhân dân vì tổ chức Đảng, các cơ quan kiểm soát, tòa án…không phải là cấp dưới của ủy ban nhân dân.
Thứ ba, tính bất hợp pháp về nội dung còn thể hiện trong các văn bản áp dụng pháp luật hay văn bản hành chính khi có nội dung trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Quyết định sử phạt vi phạm hành chính có nội dung xử phạt đối với cá nhân về hành vi hay vi phạm hành chính hành vi buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả thực hiện từ trước đó 4 năm trong khi thời hiệu sử phạt là 2 năm. Như vậy là trái với quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Điều 10 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002
Thứ tư, sự trái pháp luật thể hiện ở các mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật mà nó tổ chức thực hiện. Ví dụ: Thông báo về việc cưỡng chế với biện pháp không đúng với nội dung quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
c.Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hay tham gia
Hiện nay, dấu hiệu này rất cần được xem xét trong quá trình xử lí văn bản qui phạm pháp luật. Vì muốn thực hiện tốt các cam kết quốc tế, Việt Nam không chỉ tiền hành việc nội luật hóa mà còn phải rà soát nhằm phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa phù hợp để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế bằng văn bản khác. Ví dụ: theo quy định tại Điều 10 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ những văn bản quy phạm pháp luật mới bắt buộc phải đăng công báo còn các văn bản chỉ đạo điều hành có hiệu lực rộng rãi như công điện, công văn của cơ quan nhà nước ở trung ương không buộc phải đăng công báo nên cơ quan phát hành công báo không có trách nhiệm đăng tải.Nhưng tại Chương VI Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kì lại quy định về tính minh bạch, công khai các luật, quy định và chỉ là các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ còn có cả công văn, công điện do cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền ở trung ương ban hành. Vì vậy, giữa Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật với Chương VI Hiệp định song phương nói trên đã có những quy định không phù hợp với nhau.
Kể từ khi kí kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì, cũng như trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), Việt Nam đã và đang rà soát tất cả các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực thương mại và các lĩnh vực khác có liên quan để đảm bảo tính tương thích, đồng bộ trong quá trình triển khai thực hiện cam kết quốc tế.
Như vậu, nếu văn bản quy phạm pháp luật nào chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt nam kí kết hay tham gia thì đó là lí do để cơ quan có thẩm quyền tiến hành sử lí bằng biện pháp sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ba hành với những văn bản có liện quan đến điều ước quốc tế đó.
d.Văn bản pháp luật có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành
Văn bản pháp luật có thể thức không đúng quy định của pháp luật biểu hiện ở việc thiếu những đề mục cần thiết hay được trình bày các đề mục không đúng quy định của pháp luật, như: Văn bản quy phạm pháp luật không có năm ban hành trong đề mục số, kí hiệu văn bản; văn bản áp dụng pháp luật không có trích yếu; địa danh trong văn bản được viết không đúng (ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh, ngày…tháng…năm…); thể thức không phù hợp với thủ tục thông qua văn bản…
Văn bản pháp luật có thể có sự vi phạm về thủ tục trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay không thực hiện những thủ tục là cơ sở để xác định tính hợp pháp cho văn bản áo dụng pháp luật, như: Không thành lập hội đồng kỉ luật trước khi ra quyết định kỉ luật công chức; không thành lập hội đồng tuyển chọn thẩm phán trước khi ra quyết định bổ nhiệm thẩm phán…
3.Văn bản pháp luật không đáp ứng về yêu cầu khoa học
a.Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội
Đây là những văn bản mà trong đó có các quy định cao hơn hay thấp hơn thực trạng kinh tế - xã hội, không phù hợp với đời sống vật chất và ý thức xã hội, gây cản trở cho tiến trình phát triển của xã hội. Sự không phù hợp có thể chỉ thuộc về một phần nội dung văn bản, cũng có thể là toàn bộ văn bản. Những văn bản pháp luật này thường không có tính khả thi, khó thực hiện trên thực tiễn.
Bên cạnh đó, văn bản pháp luật cũng không đáo ứng yêu cầu về khoa học khi có nội dung không phù hợp với truyền thống đạo đức, thuần phong mĩ tục trong xã hội. Đây chính là biểu hiện của sự không phù hợp giữa pháp luật với đạo đức. pháp luật là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chức năng quản lí xã hội nhưng pháp luật lại không phải là yếu tố duy nhất để điều chỉnh xã hội. Các quy phạm pháp luật xã hội khác như đạo đức, tôn giáo… cũng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do vậy, để đảm bảo tính khả thi cho văn bản pháp luật, trong quá trình ban hành cũng như tổ chức việc thực hiện văn bản pháp luật, trong quá trình ban hành cũng như tổ chức việc thực hiện văn bản pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền cần thể hiện sự dung hòa mối quan hệ giữa pháp luật và các yếu tố trên. Nhưng trên thực tế không phải khi nào chủ thể ban hành văn bản pháp luật cũng thực hiện có hiệu quả yêu cầu này. Vì thế, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với thuần phong mĩ tục truyền thống, đạo đức tốt đẹo của dân tộc cũng dễ dàng xảy ra và làm mất đi tính khả thi của những văn bản đó. Đây cũng là đạng khiếm khuyết cảu văn bản cần được sử lí văn bản pháp luật.
Đông thời, việc không đảm bảo yêu cầu về khoa học của văn bản pháp luật còn thể hiện trong sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí.
Kĩ thuật pháp lí là yếu tố có vai trò khá quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của từng văn bản pháp luật. Tính logic, chặt chẽ về nội dung, đúng quy tắc về ngôn ngữ, phân chia sắp xếp hợp lí chính là những yêu cầu cơ bản của kĩ thuật pháp lí. Sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí của văn bản pháp luật biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, như: Nội dung không đủ để hoàn thiện chủ đề của văn bản; nội dung không tập trung, thống nhất ( tản mạn,vụn vặt); nội dung không rõ ràng, thiếu mạch lạc, thiếu chính xác; việc phận chia, sắp sếp nội dung văn bản không đảm bảo tính logic chặt chẽ; sử dụng ngôn ngữ không chuẩn mực, sử dụng từ ngữ không phù hợp với đặc trưng văn phong pháp lí (từ địa phương, từ lóng, từ hoa mỹ, thừa từ, lặp từ…), câu chữ rườm rà, tối nghĩa, không đủ thành phần ngữ pháp, diễn đạt câu thiếu mạch lạc, rõ ràng, không đảm bảo tính nhất quán, logic… Từ đó, làm cho người đọc khó hiểu hay hiểu theo nhiều cách khác nhau và làm giảm đi tính trang trọng, nghiêm túc cũng như hiệu quả tác động của văn bản pháp luật trong hoạt động giao tiếp, điều hành, quản lý.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: