nguyenquochung121183
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Phần 1.Cơ sở lí luận 4
1.1 Đặt vấn đề 4
1.2. Các khái niệm công cụ 5
1.2.1. Trẻ em 5
1.2.2. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn 5
1.2.3. Trẻ em lao động sớm 5
1.3 Các lý thuyết áp dụng 6
1.4 Vai trò của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với trẻ
em nói chung 7
1.5 Thực trạng 7
1.6 Những vấn đề mà trẻ gặp phải 10
1.7 Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ lao động sớm 12
1.7.1. Tâm lí 12
1.7.2. Sinh lí 12
1.8 Nhu cầu của trẻ lao động sớm 13
1.9 Nguyên nhân của trẻ lao động sớm 15
1.10 Giải pháp 17
1.10.1 Giải pháp theo hướng an sinh xã hội 17
1.10.2 Công tác xã hội 18
Phần 2. trường hợp cụ thể 19
2.1 Tiếp cận thân chủ 19
2.2 Xác định vấn đề của thân chủ 19.
2.3 thu thập thông tin 19
2.4 Chẩn đoán 20
2.5 Kế hoạch trị liệu 20
2.6 Trị liệu 21
2.7 Lượng giá 21
2.8 Một số kĩ năng sử dụng 21
Phần 3 . Kết luận 22
Phần 1. Cơ sở lí luận
1.1 đặt vấn đề
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển. Nền kinh tế nước ta đã có những bước đáng tự hào được nhiều nước trên thế giới đánh giá cao, chúng ta đang hướng đến mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 và có thể sánh vai với các nước phát triển trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế-xã hội, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều những khó khăn và thách thức nẩy sinh từ mặt trái của quá trình phát triển kinh tế xã hội như phân tầng xã hội, quá trình đô thị hóa không đồng bộ, môi trường bị xuống cấp, thất nghiệp, người già neo đơn, tệ nạn ma túy, trẻ em có hòan cảnh khó khăn. Riêng đối với trẻ em có hòan cảnh khó khăn, một trong những đối tượng này phải kể đến đó là trẻ em lao động sớm, bao gồm cả trẻ bị bóc lột sức lao động và trẻ em đường phố.
Nhiều trẻ em đã và đang làm nhiều công việc vất vả để kiếm sống sinh nhai cho bản thân và gia đình các em, các công việc như lượm ve chai, đánh giầy, bán vé số…phần nhiều những trẻ em có đời sống trong hòan cảnh phần lớn đều có hòan cảnh gia đình khó khăn, kinh tế nghèo. Tuy nhiên ở nhiều gia đình mà người cha ,người mẹ chưa chu toàn bổn phận về mặt kinh tế hay trong các gia đình khiếm khuyết thì lao động trẻ em đôi khi đóng vai trò khá quan trọng trong việc kiếm sống cho gia đình. Ở quốc gia nào cũng đều phải nghiên cứu về trẻ em lao động sớm, nhằm tìm ra những khó khăn và mong muốn của các em, để đưa ra những hình thưc giúp đỡ khác nhau .Tất cả chúng ta đều biết trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước do vậy việc quan tâm chăm sóc ,bảo vệ trẻ em là trách nhiệm không chỉ của gia đình mà của toàn xã hội.
Qúa trình đô thị hóa diễn ra nhanh kéo theo tình trạng lao động sớm ở trẻ em và những hậu quả đi cùng là vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Để đảm bảo được quyền lợi cho trẻ em chúng ta cần bắt tay vào giải quyết vấn đề của trẻ lao động sớm.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Trẻ em.
Theo công ước quốc tế: “Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Theo luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em 1991: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Theo định nghĩa sinh học: “ Trẻ em là con người ở giai đoạn phát triển, từ khi còn trong trứng nước tới tuôi trưởng thành”.
Nhìn theo góc độ xã hội học: Trẻ em là giai đoạn con người đang học cách tiếp cận những chuẩn mực của xã hội và đóng vai trò xã hội của mình, đây là giai đoạn xã hội hóa phát triển nhất và là giai đoạn đóng vai trò quyết định của việc hình thành nhân cách của mỗi con người.
1.2.2. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Theo điều 40 chương IV Luật bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em “Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn bao gồm: Trẻ mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bở rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ là nạn nhân chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải nặng nhọc nguy hiểm; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma túy, trẻ em vi phạm pháp luật”.
1.2.3. Trẻ em lao động sớm.
Là trẻ làm việc trong độ tuổi còn đi học, các em có thể được trả công hay không trả công, làm việc bên trong và bên ngoài gia đình, trẻ có thể làm các công việc nhẹ đến nặng nhọc. (Trích: An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. Chủ biên: Nguyễn Thị Oanh, 1997, T36)
Theo nhóm chúng tôi: Trẻ em lao động sớm là những trẻ phải lao động bằng chính sức lao động của mình để tự nuôi sống bản thân và gia đình, là những trẻ không có cơ hội phát triển bình thường và lành mạnh, không được an toàn, ít được tiếp cận với các dịch vụ xã hội.
1.3 Các lý thuyết áp dụng.
Lý thuyết hệ thống: Trong phạm vi của môn học này chúng tui đã sử dụng lý thuyết hệ thống vào thực hành CTXH với trẻ em lao động sớm. Theo đó mỗi cá nhân phải gắn với một hệ thống nhất định, trẻ em là một cá nhân phụ thuộc vào những hệ thống trong môi trường trực tiếp của các em.
Theo thuyết này con người có 3 loại hệ thống thỏa mãn cuộc sống như:
+ Các hệ thống phi chính thức: Gia đình, bạn bè, người đưa thư hay đồng nghiệp.
+ Các hệ thông chính thức: các nhóm cộng đồng các tổ chức công đoàn.
+ Các hệ thống xã hội: như trường học, bệnh viện, cơ quan.
→ Vậy nhiệm vụ của công tác xã hội theo thuyết này là: Tạo dựng mối liên hệ mới giữa cá nhân, nhóm và các hệ thống hỗ trợ; giúp họ điều chỉnh các hành vi, thực hiện sự tương tác mới với các hệ thống nguồn lực khác; giúp điều chỉnh hay phát triển các hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội sao cho phù hợp và giúp thân chủ tiếp cận được với các chính sách đó. Áp dụng lý thuyết để biết được các thành tố tác động và nguyên nhân dẫn đến trẻ lao động sớm. Từ đó cán sự xã hội có thể tác động lên các hệ thống như gia đình, trường học, tổ chức xã hội để giảm tình trạng trẻ em lao động sớm
Trong bất kì một lĩnh vực của CTXH chúng ta có thể kết hợp nhiều lý thuyết vào để thực hành hay giải quyết trường hợp. Bên cạnh lý thuyết hệ thống chúng tui có thể áp dụng lý thuyết nhận thức và hành vi, tâm lí học trong quá trình làm việc với trẻ.
1.4 Vai trò của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với trẻ em nói chung.
+ Nhận biết được các nhu cầu của trẻ đứng trên quan điểm phát triển để từ đó giải quyết các vấn đề của trẻ.
+ Hiểu biết khá sâu rộng về sự hiểu biết, nhận thức và thế giới nội tâm của trẻ đối với vấn đề đang gặp phải.
+ Là người có thể giúp các em chia sẻ những khó khăn, mong muốn của trẻ:
Người nhân viên xã hội nên trang bị cho mình những kỹ năng về sinh hoạt cộng đồng, biết tổ chức những cuộc vui chơi giã ngoại cho các em, giúp các em khoay khoả một phần nào của cuộc sống. Tạo sự thân mật gần gũi với các em như người thân, biết lắng nghe những tâm tư nguyện vọng và tôn trọng những ý kiến của các em để các em biết rằng các em vẫn còn có người để chia sẽ, xã hội còn có những tấm lòng quan tâm đến các em.
+ Là cầu nối giúp các em tiếp cận được với những nguồn lực xung quanh như gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội…
1.5 Thực trạng
Trên thế giới hiện có khoảng 218 triệu trẻ em phải lao động, trong đó có khoảng 126 triệu trẻ em phải lao động trong điều kiện nguy hiểm, 8.5 triệu trẻ em phải làm việc như nô lệ( theo báo cáo của tổ chức Save the Chirlden).
Theo thống kê của Bộ Lao động thương binh và xã hội, đến cuối tháng 6/2009 ở Việt Nam có đến 3 triệu trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn,ở Việt Nam trẻ em lang thang lao sống tập trung phần lớn ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo thống kê chưa đầy đủ Việt Nam có khoảng 10.000 trẻ làm những công việc nặng nhọc, môi trường làm việc độc hại và trên 10.000 trẻ em phải lang thang kiếm sống bằng đủ các nghề như bán hàng dong, bán vé số, nhặt ve chai, đánh giày…Sở LĐTBXH Hà Nội cho biết HN có 314 trẻ em lao động sớm (229 nữ, 85 nam) ở 9/14 quận, huyện. Các em (từ 6 – 16 tuổi) tham gia những công việc: giúp việc gia đình, tham gia sản xuất, phụ việc trong các nhà hàng, bán hàng rong… Nhiều gia đình sẵn sàng bắt con phải đi kiếm tiền, không cần biết các em phải chịu những thiệt thòi gì, chỉ quan tâm đến số tiền hàng tháng trẻ mang lại.Theo báo điện tử ĐCSVN- Khảo sát tình trạng trẻ em từ 6-16 tuổi phải lao động sớm, lao đông nặng nhọc của UBND TP Hà Nội cho thấy, sốtrẻ phải lao động sớm trong độ tuổi 15, 16 (67,8%), ở độ tuổi 14 (17,9%), ở độ tuổi 12 (3,4%). Trong đó, có cả trẻ em đi theo gia đình từ quê lên thành phố kiếm sống. Các em phải đi làm thuê kiếm tiền đưa về gia đình. Hơn nữa, bản thân bố mẹ các em nhận thức về quyền lợi của trẻ em rất mơ hồ, họ cho rằng mình cùng kiệt nên bắt con cái đi ăn xin, đánh giày, nhặt rác, phục vụ hàng ăn là điều hiển nhiên. Mặc dù Sở LĐTB&XH đã cố gắng thuyết phục họ cam kết phải để các em nghỉ làm và đến các lớp học linh hoạt tại các quận, huyện nhằm bảo đảm quyền lợi cho trẻ nhưng cũng chỉ có chừng 60-70% số trẻ được đi học. Nhiều phụ huynh hứa hẹn sẽ không bắt trẻ đi làm, nhưng thực tế sau khi đến các lớp học vào buổi sáng, buổi chiều các em vẫn phải lao động kiếm tiền. Nhiều chuyên viên hoạt động trong lĩnh vực trẻ em cho biết, trẻ em không biết được quyền lợi mà lẽ ra chúng phải được hưởng theo luật pháp. Ngay cả bố mẹ chúng cũng không quan tâm hay nói đúng hơn là họ không hề biết nên đã vô tình vi phạm Luật Lao động khi bắt con cái phải làm việc quá sớm.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng45% trẻ em có thu nhập trên 20.000đồng/ngày, gần 10% có thu nhập cao hơn mức này; 40% trẻ lao động còn lại có thu nhập 6.000 - 10.000 đồng/ngày. Mặc dù có mức thu nhập rất “khiêm tốn” nhưng các em lại phải lao động rất cực nhọc, có tới gần 50% các em phải làm việc tới 10- 12giờ/ngày, nhiều em phải làm việc cả ngày thứ bảy,chủ nhật đấy là chưa kể nhiều em phải làm việc, kiếm sống vào ban đêm bằng nghề: nhặt giác, làm việc trong các xưởng sản xuất tư nhân, lò mổ gia xúc .Tuy vất vả như vậy nhưng so với lao động ở quê thì mức thu nhập đó vẫn còn khá. Chính vì vậy mà ngày càng có nhiều trẻ em bỏ học lên thành phố kiếm sống. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng lớn tới an ninh trật tự của thành phố mà nó còn dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như: mại dâm, ma tuý Theo đó, nguy cơ trẻ em lao động sớm phải đối diện với các tệ nạn xã hội là
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Phần 1.Cơ sở lí luận 4
1.1 Đặt vấn đề 4
1.2. Các khái niệm công cụ 5
1.2.1. Trẻ em 5
1.2.2. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn 5
1.2.3. Trẻ em lao động sớm 5
1.3 Các lý thuyết áp dụng 6
1.4 Vai trò của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với trẻ
em nói chung 7
1.5 Thực trạng 7
1.6 Những vấn đề mà trẻ gặp phải 10
1.7 Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ lao động sớm 12
1.7.1. Tâm lí 12
1.7.2. Sinh lí 12
1.8 Nhu cầu của trẻ lao động sớm 13
1.9 Nguyên nhân của trẻ lao động sớm 15
1.10 Giải pháp 17
1.10.1 Giải pháp theo hướng an sinh xã hội 17
1.10.2 Công tác xã hội 18
Phần 2. trường hợp cụ thể 19
2.1 Tiếp cận thân chủ 19
2.2 Xác định vấn đề của thân chủ 19.
2.3 thu thập thông tin 19
2.4 Chẩn đoán 20
2.5 Kế hoạch trị liệu 20
2.6 Trị liệu 21
2.7 Lượng giá 21
2.8 Một số kĩ năng sử dụng 21
Phần 3 . Kết luận 22
Phần 1. Cơ sở lí luận
1.1 đặt vấn đề
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển. Nền kinh tế nước ta đã có những bước đáng tự hào được nhiều nước trên thế giới đánh giá cao, chúng ta đang hướng đến mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 và có thể sánh vai với các nước phát triển trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế-xã hội, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều những khó khăn và thách thức nẩy sinh từ mặt trái của quá trình phát triển kinh tế xã hội như phân tầng xã hội, quá trình đô thị hóa không đồng bộ, môi trường bị xuống cấp, thất nghiệp, người già neo đơn, tệ nạn ma túy, trẻ em có hòan cảnh khó khăn. Riêng đối với trẻ em có hòan cảnh khó khăn, một trong những đối tượng này phải kể đến đó là trẻ em lao động sớm, bao gồm cả trẻ bị bóc lột sức lao động và trẻ em đường phố.
Nhiều trẻ em đã và đang làm nhiều công việc vất vả để kiếm sống sinh nhai cho bản thân và gia đình các em, các công việc như lượm ve chai, đánh giầy, bán vé số…phần nhiều những trẻ em có đời sống trong hòan cảnh phần lớn đều có hòan cảnh gia đình khó khăn, kinh tế nghèo. Tuy nhiên ở nhiều gia đình mà người cha ,người mẹ chưa chu toàn bổn phận về mặt kinh tế hay trong các gia đình khiếm khuyết thì lao động trẻ em đôi khi đóng vai trò khá quan trọng trong việc kiếm sống cho gia đình. Ở quốc gia nào cũng đều phải nghiên cứu về trẻ em lao động sớm, nhằm tìm ra những khó khăn và mong muốn của các em, để đưa ra những hình thưc giúp đỡ khác nhau .Tất cả chúng ta đều biết trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước do vậy việc quan tâm chăm sóc ,bảo vệ trẻ em là trách nhiệm không chỉ của gia đình mà của toàn xã hội.
Qúa trình đô thị hóa diễn ra nhanh kéo theo tình trạng lao động sớm ở trẻ em và những hậu quả đi cùng là vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Để đảm bảo được quyền lợi cho trẻ em chúng ta cần bắt tay vào giải quyết vấn đề của trẻ lao động sớm.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Trẻ em.
Theo công ước quốc tế: “Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Theo luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em 1991: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Theo định nghĩa sinh học: “ Trẻ em là con người ở giai đoạn phát triển, từ khi còn trong trứng nước tới tuôi trưởng thành”.
Nhìn theo góc độ xã hội học: Trẻ em là giai đoạn con người đang học cách tiếp cận những chuẩn mực của xã hội và đóng vai trò xã hội của mình, đây là giai đoạn xã hội hóa phát triển nhất và là giai đoạn đóng vai trò quyết định của việc hình thành nhân cách của mỗi con người.
1.2.2. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Theo điều 40 chương IV Luật bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em “Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn bao gồm: Trẻ mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bở rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ là nạn nhân chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải nặng nhọc nguy hiểm; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma túy, trẻ em vi phạm pháp luật”.
1.2.3. Trẻ em lao động sớm.
Là trẻ làm việc trong độ tuổi còn đi học, các em có thể được trả công hay không trả công, làm việc bên trong và bên ngoài gia đình, trẻ có thể làm các công việc nhẹ đến nặng nhọc. (Trích: An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. Chủ biên: Nguyễn Thị Oanh, 1997, T36)
Theo nhóm chúng tôi: Trẻ em lao động sớm là những trẻ phải lao động bằng chính sức lao động của mình để tự nuôi sống bản thân và gia đình, là những trẻ không có cơ hội phát triển bình thường và lành mạnh, không được an toàn, ít được tiếp cận với các dịch vụ xã hội.
1.3 Các lý thuyết áp dụng.
Lý thuyết hệ thống: Trong phạm vi của môn học này chúng tui đã sử dụng lý thuyết hệ thống vào thực hành CTXH với trẻ em lao động sớm. Theo đó mỗi cá nhân phải gắn với một hệ thống nhất định, trẻ em là một cá nhân phụ thuộc vào những hệ thống trong môi trường trực tiếp của các em.
Theo thuyết này con người có 3 loại hệ thống thỏa mãn cuộc sống như:
+ Các hệ thống phi chính thức: Gia đình, bạn bè, người đưa thư hay đồng nghiệp.
+ Các hệ thông chính thức: các nhóm cộng đồng các tổ chức công đoàn.
+ Các hệ thống xã hội: như trường học, bệnh viện, cơ quan.
→ Vậy nhiệm vụ của công tác xã hội theo thuyết này là: Tạo dựng mối liên hệ mới giữa cá nhân, nhóm và các hệ thống hỗ trợ; giúp họ điều chỉnh các hành vi, thực hiện sự tương tác mới với các hệ thống nguồn lực khác; giúp điều chỉnh hay phát triển các hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội sao cho phù hợp và giúp thân chủ tiếp cận được với các chính sách đó. Áp dụng lý thuyết để biết được các thành tố tác động và nguyên nhân dẫn đến trẻ lao động sớm. Từ đó cán sự xã hội có thể tác động lên các hệ thống như gia đình, trường học, tổ chức xã hội để giảm tình trạng trẻ em lao động sớm
Trong bất kì một lĩnh vực của CTXH chúng ta có thể kết hợp nhiều lý thuyết vào để thực hành hay giải quyết trường hợp. Bên cạnh lý thuyết hệ thống chúng tui có thể áp dụng lý thuyết nhận thức và hành vi, tâm lí học trong quá trình làm việc với trẻ.
1.4 Vai trò của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với trẻ em nói chung.
+ Nhận biết được các nhu cầu của trẻ đứng trên quan điểm phát triển để từ đó giải quyết các vấn đề của trẻ.
+ Hiểu biết khá sâu rộng về sự hiểu biết, nhận thức và thế giới nội tâm của trẻ đối với vấn đề đang gặp phải.
+ Là người có thể giúp các em chia sẻ những khó khăn, mong muốn của trẻ:
Người nhân viên xã hội nên trang bị cho mình những kỹ năng về sinh hoạt cộng đồng, biết tổ chức những cuộc vui chơi giã ngoại cho các em, giúp các em khoay khoả một phần nào của cuộc sống. Tạo sự thân mật gần gũi với các em như người thân, biết lắng nghe những tâm tư nguyện vọng và tôn trọng những ý kiến của các em để các em biết rằng các em vẫn còn có người để chia sẽ, xã hội còn có những tấm lòng quan tâm đến các em.
+ Là cầu nối giúp các em tiếp cận được với những nguồn lực xung quanh như gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội…
1.5 Thực trạng
Trên thế giới hiện có khoảng 218 triệu trẻ em phải lao động, trong đó có khoảng 126 triệu trẻ em phải lao động trong điều kiện nguy hiểm, 8.5 triệu trẻ em phải làm việc như nô lệ( theo báo cáo của tổ chức Save the Chirlden).
Theo thống kê của Bộ Lao động thương binh và xã hội, đến cuối tháng 6/2009 ở Việt Nam có đến 3 triệu trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn,ở Việt Nam trẻ em lang thang lao sống tập trung phần lớn ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo thống kê chưa đầy đủ Việt Nam có khoảng 10.000 trẻ làm những công việc nặng nhọc, môi trường làm việc độc hại và trên 10.000 trẻ em phải lang thang kiếm sống bằng đủ các nghề như bán hàng dong, bán vé số, nhặt ve chai, đánh giày…Sở LĐTBXH Hà Nội cho biết HN có 314 trẻ em lao động sớm (229 nữ, 85 nam) ở 9/14 quận, huyện. Các em (từ 6 – 16 tuổi) tham gia những công việc: giúp việc gia đình, tham gia sản xuất, phụ việc trong các nhà hàng, bán hàng rong… Nhiều gia đình sẵn sàng bắt con phải đi kiếm tiền, không cần biết các em phải chịu những thiệt thòi gì, chỉ quan tâm đến số tiền hàng tháng trẻ mang lại.Theo báo điện tử ĐCSVN- Khảo sát tình trạng trẻ em từ 6-16 tuổi phải lao động sớm, lao đông nặng nhọc của UBND TP Hà Nội cho thấy, sốtrẻ phải lao động sớm trong độ tuổi 15, 16 (67,8%), ở độ tuổi 14 (17,9%), ở độ tuổi 12 (3,4%). Trong đó, có cả trẻ em đi theo gia đình từ quê lên thành phố kiếm sống. Các em phải đi làm thuê kiếm tiền đưa về gia đình. Hơn nữa, bản thân bố mẹ các em nhận thức về quyền lợi của trẻ em rất mơ hồ, họ cho rằng mình cùng kiệt nên bắt con cái đi ăn xin, đánh giày, nhặt rác, phục vụ hàng ăn là điều hiển nhiên. Mặc dù Sở LĐTB&XH đã cố gắng thuyết phục họ cam kết phải để các em nghỉ làm và đến các lớp học linh hoạt tại các quận, huyện nhằm bảo đảm quyền lợi cho trẻ nhưng cũng chỉ có chừng 60-70% số trẻ được đi học. Nhiều phụ huynh hứa hẹn sẽ không bắt trẻ đi làm, nhưng thực tế sau khi đến các lớp học vào buổi sáng, buổi chiều các em vẫn phải lao động kiếm tiền. Nhiều chuyên viên hoạt động trong lĩnh vực trẻ em cho biết, trẻ em không biết được quyền lợi mà lẽ ra chúng phải được hưởng theo luật pháp. Ngay cả bố mẹ chúng cũng không quan tâm hay nói đúng hơn là họ không hề biết nên đã vô tình vi phạm Luật Lao động khi bắt con cái phải làm việc quá sớm.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng45% trẻ em có thu nhập trên 20.000đồng/ngày, gần 10% có thu nhập cao hơn mức này; 40% trẻ lao động còn lại có thu nhập 6.000 - 10.000 đồng/ngày. Mặc dù có mức thu nhập rất “khiêm tốn” nhưng các em lại phải lao động rất cực nhọc, có tới gần 50% các em phải làm việc tới 10- 12giờ/ngày, nhiều em phải làm việc cả ngày thứ bảy,chủ nhật đấy là chưa kể nhiều em phải làm việc, kiếm sống vào ban đêm bằng nghề: nhặt giác, làm việc trong các xưởng sản xuất tư nhân, lò mổ gia xúc .Tuy vất vả như vậy nhưng so với lao động ở quê thì mức thu nhập đó vẫn còn khá. Chính vì vậy mà ngày càng có nhiều trẻ em bỏ học lên thành phố kiếm sống. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng lớn tới an ninh trật tự của thành phố mà nó còn dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như: mại dâm, ma tuý Theo đó, nguy cơ trẻ em lao động sớm phải đối diện với các tệ nạn xã hội là
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links