Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Tóm tắt:
- Thời gian: 30, tháng 1, năm 1968 đến 8, tháng 6, năm 1968.
- Địa điểm: Nam Việt Nam.
- Kết quả: Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ thắng về chiến thuật. Giải phóng quân miền Nam thắng về chính trị.
- Tham chiến:
+ Địch: Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, New Zealand, Úc
+ Ta : Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Chỉ huy:
+ Địch: William Westmoreland.
+ Ta : Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Diễn biến Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
(Theo
- Tháng 6 – 1967, Bộ Chính trị báo cáo trước Hội nghị trung ương về chủ trương giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn, dự kiến trong năm 1968.
- Tháng 1 – 1968, Hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ 14 thông qua nghị quyết Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa mang mật danh là nghị quyết Quang Trung.
- 20 – 1 – 1968, 02 giờ 00, cụm pháo bính của sư đoàn 325 được lệnh nổ súng; các khẩu pháo D 74 của trung đoàn 45 đồng loạt nhả đạn vào sân bay, sở chỉ huy, các trận địa pháo binh địch ở Tà Cơn, Khe Sanh, đồn hướng hoá, điểm cao 832. Cùng lúc đó ở khu Đông, cụm pháo trung đoàn 204 dùng ca- nông 130mm tập kích hoả lực vào căn cứ pháo binh địch ở điểm cao 241, làm tê liệt mấy chục khẩu pháo 175mm của chúng. Tiểu đoàn 21 ca- nông 130mm bố trí tại xã Vĩnh Thuỷ (Vĩnh Linh) đã trực tiếp chi viện cho bộ binh tiến công quân nguỵ ở Lâm Xuân Đông và yểm trợ cho đặc công đánh tàu địch trên sông Cửa Việt.
- Cùng ngày giờ trên, được pháo binh chi viện cho bộ binh tiến công quân nguỵ ở Lâm Xuân Đông và yểm trợ cho đặc công đánh tàu địch trên sông Cửa Việt.
- Cùng ngày giờ trên, được pháo binh chi viện, tiểu đoàn 7 trung đoàn 66, sư đoàn 304 nổ súng tiến công quận lý Hướng Hoá do một đại đội Bảo an nguỵ phòng giữ, tại đây có cơ quan hành chính nguỵ quyền huyện và dân dồn về khoảng 10.000 người. Trận mở đầu diễn ra tương đối thuận lợi, đại bộ phận quân địch bị tiêu diệt, quân ta chiếm và làm chủ quận lỵ, một số tên đích chạy thoát về cụm cứ điểm Tà Cơn. Cùng đêm, tiểu đoàn 6 trung đoàn 2 tiến công quân địch ở điểm cao 832 không thành công, phải chuyển sáng bao vây kiềm chế địch.
- 21 – 1 – 1968, một đại đội Bảo an địch từ Quảng Trị cơ động bằng trực thăng, đổ bộ xuống ngã ba Khu Bốc (đông bắc quận lỵ Hướng Hoá 2 km) liền bị quân ta tiêu diệt.
- 23- 1- 1968, bộ tư lệnh chiến dịch đường số 9 hạ quyết tâm tiêu diệt cứ điểm Huội San và giao nhiệm vụ này cho tiểu đoàn 1 trung đoàn 24 sư đoàn 304 được tăng cường 1 đại đội xe tăng lội nước (PT76). Cứ điểm này nằm án ngữ trên đường số 9 sát biên giới Việt Lào do tiểu đoàn BV 33 nguỵ Lào phòng giữ. Cách đánh là bao vây toàn cụm, dùng lực lượng bộ binh và xe tăng đánh thẳng vào trung tâm Tà Mây nơi đóng chỉ huy sở của địch, rồi từ đó tỏa ra đánh tiêu diệt toàn cụm cứ điểm. Quân ta làm chủ cụm cứ điểm Huội San trong đêm nhưng do bao vậy không chặt nên 400 tên địch đã rút chạy về được Tà Cơn cũ
- 24 - 1 – 1968, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ đánh vào chốt Hoàng Hà (trên đường 9 khu Đông) bị tiêu diệt 200 tên.
- Đêm 31 - 1- 1968, trung đoàn 48 bộ binh thuộc sư đoàn 320 tiến công quận lỵ Cam Lô (Quảng Trị) không thành công.
Đợt I (30 - 1 – 1968 đến 28 - 3 - 1968)
- Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra vào đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968 (Ngày mồng một Tết Mậu Thân).
Từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau các lực lượng vũ trang nhân dân ta bất ngờ tiến công rộng khắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng trăm quân lỵ, chiếm một số nơi, phát động quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy nguỵ quyền cơ sở ở nhiều vùng nông thôn.
- Đêm 30 - 1 - 1968 (đêm 29 rạng ngày 30 tết), các lực lượng vũ trang nhân dân ở khu 5 và Tây Nguyên tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào các tỉnh lỵ, thị trấn căn cứ Mỹ - nguỵ; Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 nguỵ ở Đà Nẵng, Hội An, sân bay đà Nẵng, sân bay Non Nước, Nha Trang, Đắc Lắc, Plây cu, Quy Nhơn (Bình Định).
- 31 - 1 - 1968 (Đêm 30 rạng mồng 1 Tết), tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào các tỉnh, thành phố Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Phong Định, Vĩnh Long, Cần Thơ.
- 1 - 2 - 1968 (Đêm 1 rạng ngày 2 Tết), các lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục đánh vào các tỉnh lỵ khác: Kiến Hoà, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình, Bình Dương, Tuy Hoà, Biên Hoà, Tuyên Đức, Châu Đốc, An Xuyên.
- 2 - 2 - 1968 (Ngày 2 Tết), hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân trên toàn miền có phần dừng lại, một số nơi còn bám trụ ở trong thành phố: Huế, Sài Gòn, Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Mỹ Tho, Vĩnh Long. Các nơi khác phân tán lực lượng trong nhân dân, hay rút ra vùng ven, bám trụ đánh địch.
- 3 - 2- 1968 (Ngày 3 Tết), tiếp tục mở các cuộc tiến công bằng bộ binh, đặc công vào quân địch ở thị xã Kiến Tường và Long Khánh.
- 4 - 2 – 1968, hoạt động tiến công của các đơn vị bắt đầu giảm, riêng tại Huế, ta còn chiếm giữ trong thành nội, chiến sự diễn ra rất ác liệt. Tại Sài Gòn, lực lượng của ta đã rút ra vùng ven.
- 5 - 2 – 1968, lực lượng của ta ở tỉnh Gò Công mở cuộc tiến công vào tỉnh lỵ này.
- 7 - 2- 1968, địch bắt đầu mở cuộc phản kích quyết liệt trên nhiều hướng vào nội thành Huế. Cứ điểm làng Vây do một tiểu đoàn biệt kích nguỵ phòng giữ đã bị trung đoàn 24 (thiếu) thuộc sư đoàn 304 được tăng cường xe tăng PT76 tiêu diệt. 400 tên địch chết tại chỗ, 253 tên bị bắt sống (có 5 tên Mỹ) chỉ có 72 tên sống sót trốn chạy về Tà Cơn. Ta thu toàn bộ vũ khí. Trong ngày, ta pháo kích vào tỉnh lỵ Phước Long.
- 9 - 2- 1968, lực lượng vũ trang ta ở tỉnh Lâm Đồng pháo kích vào khu ở của phái đoàn M.A.C.V. ở quận lỵ Di Linh.
- 10 - 2 – 1968:
+ Tại mặt trận đường số 9, ta bắt đầu vây hãm cụm cứ điểm Tà Cơn.
+ Tại Huế, cuộc chiến đấu chống quân địch pháo kích diễn ra vô cùng ác liệt tại Cửa Hữu và Bắc Cầu Bạch Hổ.
+ Tại Sài Gòn - Chợ lớn, địch liên tiếp mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tại thành vùng ven
+ Tại các thị xã, thị trấn khác trên toàn miền, lực lượng ta lần lượt rút ra vùng ven hoạt động.
+ Cũng trong ngày, ta pháo kích thị trấn Sa Đéc và tỉnh lỵ Long An.
- 14 - 2- 1968, một lữ đoàn thuộc sư đoàn 82 dù từ Mỹ sang miền Nam Việt Nam.
- 17 - 2 – 1968, lực lượng vũ trang nhân dân trên toàn miền Nam lại tiếp tục tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào 47 thị trấn, các cơ sở của quân đội Mỹ, ngụy và chư hầu. Sau pháo kích, ta tiến công bằng bộ binh vào: Cầu Bình Lợi, Thủ Đức, vùng Tân An, Bắc Gò Công, Định Tường, Kiến Hòa, Châu Đốc. Tại tỉnh lỵ Phan Thiết, quân địch bị thiệt hại nghiêm trọng. Các cuộc pháo kích đáng chú ý nhất là: sân bay Tân Sơn Nhất, phái bộ viện trợ Hoa Kỳ, Nha cảnh sát Đô thành trên đường Trần Hưng Đạo, đài ra đa Phú Lâm. Tiến công lần thứ hai vào thành phố Đà Lạt. Chiếm giữ khu vực An Thành, Du Sinh, Nam Thiệp và những ngày sau, đánh quân địch đến tăng viện.
- 25 - 2 – 1968, sau pháo kích ta có tiến công bằng bộ binh vào tỉnh lỵ An Xuyên. Cũng trong ngày, một lực lượng bộ binh và đặc công đột nhập vào Hóc Môn và Phú Thọ Hòa. Trong đêm 25 tháng 2 năm 1968, quân ta rút ra khỏi thành Huế, sau 25 ngày đêm anh dũng chiến đấu tại đó.
- 5 - 3 – 1968, các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam lại mở cuộc tiến công mới vào nhiều thành thị và các cơ sở của Mỹ - ngụy tại miền Nam. Tại quận lỵ Quán Lòng (Tức là Cà Mau), địch bị thiệt hại nặng nề nhất. Ta pháo kích vào sân bay Cam Ranh, làm hư hại nhẹ đường băng.
- 11 - 3 – 1968, địch dùng 75 sư đoàn và 2 chiến đoàn (5 vạn quân) mở cuộc hành quân "Quyết thắng" càn quét 5 tỉnh: Gia Định, Long An, Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa. Trong cuộc hành quân này, địch bị hủy diệt 2.055 tên, 118 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy.
+ Tại Hậu Giang, địch mở chiến dịch "Trương Công Định"
+ Tại giới tuyến, địch mở cuộc hành quân Mắc áctơ có sư đoàn 4 Mỹ và khu chiến thuật 23 tham gia.
+ Tại Quảng Tín, Quảng Ngãi, địch mở các cuộc hành quân kéo dài hơn 1 tháng, nhằm mục đích tảo thanh và đẩy lực lượng chủ lực của ta ra xa.
Ba là, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, làm nền tảng của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn sự kiện lịch sử này cho thấy, vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ, của thế trận chiến tranh nhân dân. Do đó, ngay từ thời bình phải chăm lo xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thành thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo đảm tính toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, trong đó tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị, phát triển vững chắc về kinh tế, ổn định về xã hội. Trên cơ sở tạo thế bố trí chiến lược chung của cả nước, chú trọng vào các khu vực phòng thủ then chốt, các địa bàn chiến lược, vùng biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế ngay trong từng dự án cũng như trong quy hoạch của từng địa phương và tổng thể cả nước. Chăm lo bảo đảm tốt đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí nhằm củng cố vững chắc niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, phát triển tiềm lực quốc phòng, quân sự.
Phát triển tiềm lực quốc phòng, quân sự tạo ra khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động được cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ngăn ngừa mọi âm mưu, hành động gây chiến tranh của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, nếu xảy ra. Sức mạnh của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, vì vậy, xây dựng tiềm lực quốc phòng, quân sự phải nhằm góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, chủ động chuẩn bị, gắn liền với mỗi bước tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay, cần tận dụng những thời cơ thuận lợi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng quan hệ hợp tác, trao đổi, học tập kinh nghiệm, nhất là về khoa học - kỹ thuật hiện đại, nhằm đi tắt đón đầu, phục vụ sự phát triển công nghiệp quốc phòng, công tác nghiên cứu khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân và công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, các lực lượng và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân đóng vai trò chủ đạo. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: "Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yếu mến". Theo đó, chúng ta phải thường xuyên xây dựng quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong quá trình xây dựng quân đội phải coi trọng cả lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Tóm tắt:
- Thời gian: 30, tháng 1, năm 1968 đến 8, tháng 6, năm 1968.
- Địa điểm: Nam Việt Nam.
- Kết quả: Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ thắng về chiến thuật. Giải phóng quân miền Nam thắng về chính trị.
- Tham chiến:
+ Địch: Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, New Zealand, Úc
+ Ta : Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Chỉ huy:
+ Địch: William Westmoreland.
+ Ta : Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Diễn biến Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
(Theo
You must be registered for see links
)- Tháng 6 – 1967, Bộ Chính trị báo cáo trước Hội nghị trung ương về chủ trương giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn, dự kiến trong năm 1968.
- Tháng 1 – 1968, Hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ 14 thông qua nghị quyết Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa mang mật danh là nghị quyết Quang Trung.
- 20 – 1 – 1968, 02 giờ 00, cụm pháo bính của sư đoàn 325 được lệnh nổ súng; các khẩu pháo D 74 của trung đoàn 45 đồng loạt nhả đạn vào sân bay, sở chỉ huy, các trận địa pháo binh địch ở Tà Cơn, Khe Sanh, đồn hướng hoá, điểm cao 832. Cùng lúc đó ở khu Đông, cụm pháo trung đoàn 204 dùng ca- nông 130mm tập kích hoả lực vào căn cứ pháo binh địch ở điểm cao 241, làm tê liệt mấy chục khẩu pháo 175mm của chúng. Tiểu đoàn 21 ca- nông 130mm bố trí tại xã Vĩnh Thuỷ (Vĩnh Linh) đã trực tiếp chi viện cho bộ binh tiến công quân nguỵ ở Lâm Xuân Đông và yểm trợ cho đặc công đánh tàu địch trên sông Cửa Việt.
- Cùng ngày giờ trên, được pháo binh chi viện cho bộ binh tiến công quân nguỵ ở Lâm Xuân Đông và yểm trợ cho đặc công đánh tàu địch trên sông Cửa Việt.
- Cùng ngày giờ trên, được pháo binh chi viện, tiểu đoàn 7 trung đoàn 66, sư đoàn 304 nổ súng tiến công quận lý Hướng Hoá do một đại đội Bảo an nguỵ phòng giữ, tại đây có cơ quan hành chính nguỵ quyền huyện và dân dồn về khoảng 10.000 người. Trận mở đầu diễn ra tương đối thuận lợi, đại bộ phận quân địch bị tiêu diệt, quân ta chiếm và làm chủ quận lỵ, một số tên đích chạy thoát về cụm cứ điểm Tà Cơn. Cùng đêm, tiểu đoàn 6 trung đoàn 2 tiến công quân địch ở điểm cao 832 không thành công, phải chuyển sáng bao vây kiềm chế địch.
- 21 – 1 – 1968, một đại đội Bảo an địch từ Quảng Trị cơ động bằng trực thăng, đổ bộ xuống ngã ba Khu Bốc (đông bắc quận lỵ Hướng Hoá 2 km) liền bị quân ta tiêu diệt.
- 23- 1- 1968, bộ tư lệnh chiến dịch đường số 9 hạ quyết tâm tiêu diệt cứ điểm Huội San và giao nhiệm vụ này cho tiểu đoàn 1 trung đoàn 24 sư đoàn 304 được tăng cường 1 đại đội xe tăng lội nước (PT76). Cứ điểm này nằm án ngữ trên đường số 9 sát biên giới Việt Lào do tiểu đoàn BV 33 nguỵ Lào phòng giữ. Cách đánh là bao vây toàn cụm, dùng lực lượng bộ binh và xe tăng đánh thẳng vào trung tâm Tà Mây nơi đóng chỉ huy sở của địch, rồi từ đó tỏa ra đánh tiêu diệt toàn cụm cứ điểm. Quân ta làm chủ cụm cứ điểm Huội San trong đêm nhưng do bao vậy không chặt nên 400 tên địch đã rút chạy về được Tà Cơn cũ
- 24 - 1 – 1968, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ đánh vào chốt Hoàng Hà (trên đường 9 khu Đông) bị tiêu diệt 200 tên.
- Đêm 31 - 1- 1968, trung đoàn 48 bộ binh thuộc sư đoàn 320 tiến công quận lỵ Cam Lô (Quảng Trị) không thành công.
Đợt I (30 - 1 – 1968 đến 28 - 3 - 1968)
- Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra vào đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968 (Ngày mồng một Tết Mậu Thân).
Từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau các lực lượng vũ trang nhân dân ta bất ngờ tiến công rộng khắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng trăm quân lỵ, chiếm một số nơi, phát động quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy nguỵ quyền cơ sở ở nhiều vùng nông thôn.
- Đêm 30 - 1 - 1968 (đêm 29 rạng ngày 30 tết), các lực lượng vũ trang nhân dân ở khu 5 và Tây Nguyên tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào các tỉnh lỵ, thị trấn căn cứ Mỹ - nguỵ; Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 nguỵ ở Đà Nẵng, Hội An, sân bay đà Nẵng, sân bay Non Nước, Nha Trang, Đắc Lắc, Plây cu, Quy Nhơn (Bình Định).
- 31 - 1 - 1968 (Đêm 30 rạng mồng 1 Tết), tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào các tỉnh, thành phố Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Phong Định, Vĩnh Long, Cần Thơ.
- 1 - 2 - 1968 (Đêm 1 rạng ngày 2 Tết), các lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục đánh vào các tỉnh lỵ khác: Kiến Hoà, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình, Bình Dương, Tuy Hoà, Biên Hoà, Tuyên Đức, Châu Đốc, An Xuyên.
- 2 - 2 - 1968 (Ngày 2 Tết), hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân trên toàn miền có phần dừng lại, một số nơi còn bám trụ ở trong thành phố: Huế, Sài Gòn, Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Mỹ Tho, Vĩnh Long. Các nơi khác phân tán lực lượng trong nhân dân, hay rút ra vùng ven, bám trụ đánh địch.
- 3 - 2- 1968 (Ngày 3 Tết), tiếp tục mở các cuộc tiến công bằng bộ binh, đặc công vào quân địch ở thị xã Kiến Tường và Long Khánh.
- 4 - 2 – 1968, hoạt động tiến công của các đơn vị bắt đầu giảm, riêng tại Huế, ta còn chiếm giữ trong thành nội, chiến sự diễn ra rất ác liệt. Tại Sài Gòn, lực lượng của ta đã rút ra vùng ven.
- 5 - 2 – 1968, lực lượng của ta ở tỉnh Gò Công mở cuộc tiến công vào tỉnh lỵ này.
- 7 - 2- 1968, địch bắt đầu mở cuộc phản kích quyết liệt trên nhiều hướng vào nội thành Huế. Cứ điểm làng Vây do một tiểu đoàn biệt kích nguỵ phòng giữ đã bị trung đoàn 24 (thiếu) thuộc sư đoàn 304 được tăng cường xe tăng PT76 tiêu diệt. 400 tên địch chết tại chỗ, 253 tên bị bắt sống (có 5 tên Mỹ) chỉ có 72 tên sống sót trốn chạy về Tà Cơn. Ta thu toàn bộ vũ khí. Trong ngày, ta pháo kích vào tỉnh lỵ Phước Long.
- 9 - 2- 1968, lực lượng vũ trang ta ở tỉnh Lâm Đồng pháo kích vào khu ở của phái đoàn M.A.C.V. ở quận lỵ Di Linh.
- 10 - 2 – 1968:
+ Tại mặt trận đường số 9, ta bắt đầu vây hãm cụm cứ điểm Tà Cơn.
+ Tại Huế, cuộc chiến đấu chống quân địch pháo kích diễn ra vô cùng ác liệt tại Cửa Hữu và Bắc Cầu Bạch Hổ.
+ Tại Sài Gòn - Chợ lớn, địch liên tiếp mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tại thành vùng ven
+ Tại các thị xã, thị trấn khác trên toàn miền, lực lượng ta lần lượt rút ra vùng ven hoạt động.
+ Cũng trong ngày, ta pháo kích thị trấn Sa Đéc và tỉnh lỵ Long An.
- 14 - 2- 1968, một lữ đoàn thuộc sư đoàn 82 dù từ Mỹ sang miền Nam Việt Nam.
- 17 - 2 – 1968, lực lượng vũ trang nhân dân trên toàn miền Nam lại tiếp tục tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào 47 thị trấn, các cơ sở của quân đội Mỹ, ngụy và chư hầu. Sau pháo kích, ta tiến công bằng bộ binh vào: Cầu Bình Lợi, Thủ Đức, vùng Tân An, Bắc Gò Công, Định Tường, Kiến Hòa, Châu Đốc. Tại tỉnh lỵ Phan Thiết, quân địch bị thiệt hại nghiêm trọng. Các cuộc pháo kích đáng chú ý nhất là: sân bay Tân Sơn Nhất, phái bộ viện trợ Hoa Kỳ, Nha cảnh sát Đô thành trên đường Trần Hưng Đạo, đài ra đa Phú Lâm. Tiến công lần thứ hai vào thành phố Đà Lạt. Chiếm giữ khu vực An Thành, Du Sinh, Nam Thiệp và những ngày sau, đánh quân địch đến tăng viện.
- 25 - 2 – 1968, sau pháo kích ta có tiến công bằng bộ binh vào tỉnh lỵ An Xuyên. Cũng trong ngày, một lực lượng bộ binh và đặc công đột nhập vào Hóc Môn và Phú Thọ Hòa. Trong đêm 25 tháng 2 năm 1968, quân ta rút ra khỏi thành Huế, sau 25 ngày đêm anh dũng chiến đấu tại đó.
- 5 - 3 – 1968, các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam lại mở cuộc tiến công mới vào nhiều thành thị và các cơ sở của Mỹ - ngụy tại miền Nam. Tại quận lỵ Quán Lòng (Tức là Cà Mau), địch bị thiệt hại nặng nề nhất. Ta pháo kích vào sân bay Cam Ranh, làm hư hại nhẹ đường băng.
- 11 - 3 – 1968, địch dùng 75 sư đoàn và 2 chiến đoàn (5 vạn quân) mở cuộc hành quân "Quyết thắng" càn quét 5 tỉnh: Gia Định, Long An, Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa. Trong cuộc hành quân này, địch bị hủy diệt 2.055 tên, 118 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy.
+ Tại Hậu Giang, địch mở chiến dịch "Trương Công Định"
+ Tại giới tuyến, địch mở cuộc hành quân Mắc áctơ có sư đoàn 4 Mỹ và khu chiến thuật 23 tham gia.
+ Tại Quảng Tín, Quảng Ngãi, địch mở các cuộc hành quân kéo dài hơn 1 tháng, nhằm mục đích tảo thanh và đẩy lực lượng chủ lực của ta ra xa.
Ba là, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, làm nền tảng của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn sự kiện lịch sử này cho thấy, vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ, của thế trận chiến tranh nhân dân. Do đó, ngay từ thời bình phải chăm lo xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thành thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo đảm tính toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, trong đó tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị, phát triển vững chắc về kinh tế, ổn định về xã hội. Trên cơ sở tạo thế bố trí chiến lược chung của cả nước, chú trọng vào các khu vực phòng thủ then chốt, các địa bàn chiến lược, vùng biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế ngay trong từng dự án cũng như trong quy hoạch của từng địa phương và tổng thể cả nước. Chăm lo bảo đảm tốt đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí nhằm củng cố vững chắc niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, phát triển tiềm lực quốc phòng, quân sự.
Phát triển tiềm lực quốc phòng, quân sự tạo ra khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động được cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ngăn ngừa mọi âm mưu, hành động gây chiến tranh của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, nếu xảy ra. Sức mạnh của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, vì vậy, xây dựng tiềm lực quốc phòng, quân sự phải nhằm góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, chủ động chuẩn bị, gắn liền với mỗi bước tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay, cần tận dụng những thời cơ thuận lợi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng quan hệ hợp tác, trao đổi, học tập kinh nghiệm, nhất là về khoa học - kỹ thuật hiện đại, nhằm đi tắt đón đầu, phục vụ sự phát triển công nghiệp quốc phòng, công tác nghiên cứu khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân và công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, các lực lượng và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân đóng vai trò chủ đạo. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: "Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yếu mến". Theo đó, chúng ta phải thường xuyên xây dựng quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong quá trình xây dựng quân đội phải coi trọng cả lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: