Santiago

New Member
Luận văn: Đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Khoa học chính trị: 60 31 20
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2013
Chủ đề: Tính cạnh tranh
Bầu cử
Quốc hội
Chính trị học
Việt Nam
Miêu tả: 113 tr. + CD-ROM + Tóm tắt
Luận văn ThS. Chính trị học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Làm rõ khái niệm, chức năng của bầu cử, các tiêu chí để đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử nói chung. Nghiên cứu thực trạng tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử Quốc hội ở nước ta hiện nay. Chỉ ra những vấn đề tồn tại và đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG
Chương 1 Một số vấn đề lý luận chung về bầu cử và tính cạnh tranh
trong bầu cử 10
1.1 Bầu cử và chức năng của bầu cử trong hệ thống chính trị 10
1.2 Tính cạnh tranh trong bầu cử 25
Chương 2 Tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử Quốc hội ở Việt
Nam hiện nay 39
2.1 Các nguyên tắc bầu cử Quốc hội ở Việt Nam 40
2.2 Tính cạnh tranh trong giới thiệu và lập danh sách ứng cử viên 45
2.3 Tính cạnh tranh trong quá trình vận động bầu cử 60
2.4 Tính cạnh tranh trong việc phân chia đơn vị bầu cử và hoạt
động của các tổ chức phụ trách bầu cử
73
Chương 3 Những vấn đề đặt ra và một số kiến nghị nhằm đảm bảo
tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay 88
3.1
Những vấn đề đặt ra đối với việc đảm bảo tính cạnh tranh trong
bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay 88
3.2 Một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
98
KẾT LUẬN 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121
PHỤ LỤC 1314
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐBQH: Đại biểu Quốc hội
LBCĐBQH: Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
TTĐC: Thông tin đại chúng
UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội
UBTƯMTTQ: Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền chính trị hiện đại, bầu cử đóng một vị trí rất quan trọng, là sự
kiện chính trị đặc biệt đối với tất cả các quốc gia, nhất là trong xu hướng dân
chủ hóa hiện nay. Xã hội càng phát triển, dân chủ càng được mở rộng cả về
nội dung và hình thức. Mặc dù có nhiều cơ chế khác nhau để thực thi dân chủ
nhưng thực tế lịch sử chính trị cho thấy bầu cử vẫn là cơ chế chủ đạo và hiệu
quả nhất. Nhìn vào hoạt động bầu cử, có thể hiểu được tính chất dân chủ và sự
vận hành của hệ thống chính trị nước đó. Vì vậy, bầu cử được coi là trụ cột
trong cấu trúc dân chủ ở bất kỳ nhà nước nào, “bầu cử tự do và công bằng là
trái tim của dân chủ” đúng như Jame A.Baker - một chuyên gia nghiên cứu về
bầu cử đã nhận định. Với ý nghĩa đó, một cuộc bầu cử dân chủ phải đáp ứng
được rất nhiều tiêu chí mang tính phổ biến của nền chính trị hiện đại. Trong
đó, tính cạnh tranh là một tiêu chí quan trọng.
Từ khi lập nước đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trưởng thành qua mười
ba khóa tương ứng với mười ba cuộc bầu cử ĐBQH. Nhìn chung, trong những
cuộc bầu cử Quốc hội gần đây, cùng với việc hoàn thiện luật bầu cử, cách thức
tổ chức bầu cử đã có nhiều đổi mới và được tiến hành theo hướng dân chủ hơn.
Điều này phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội, cũng như chủ trương
đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân. Song, do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, hệ thống bầu cử Quốc hội ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế ở cả mặt
pháp lý và quá trình tổ chức thực hiện. Trong đó, tính cạnh tranh tuy đã được thể
hiện trong các công đoạn của quá trình bầu cử, từ khâu lựa chọn nhân sự, phân
chia đơn vị bầu cử đến vận động bầu cử, nhưng nhìn chung còn khá mờ nhạt.2
Điều này ảnh hưởng đến chất lượng dân chủ của cuộc bầu cử, đến chất lượng đại
biểu được bầu, làm giảm sự kết nối giữa người dân và các đại diện… Hơn nữa,
để đáp ứng mục tiêu “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất…” như tinh thần của Đại hội Đảng XI; muốn Quốc hội
chuyển từ cơ chế hoạt động nặng về “tham luận” sang cơ chế “tranh luận”,
chuyển chất vấn “dĩ hòa vi quý” sang chất vấn “truy kích” thì cần đổi mới
tư duy từ những vấn đề mang tính nguyên lý, tức là cần đổi mới từ “gốc”. Muốn
có một Quốc hội thực sự sôi động trong hoạt động, chế độ bầu cử Quốc hội phải
đảm bảo tính cạnh tranh. Do đó, đổi mới cơ chế bầu cử Quốc hội theo hướng
đảm bảo tính cạnh tranh, sẽ là tiền đề cho việc đổi mới hoạt động của cơ quan
thay mặt và bộ máy nhà nước.
Bên cạnh đó, vấn đề cạnh tranh trong bầu cử ở Việt Nam hiện nay vừa là
một đề tài mang tính thời sự, nhưng đồng thời là một vấn đề khá nhạy cảm về
mặt chính trị, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất cầm
quyền. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá một cách thật thấu đáo
toàn bộ quy trình bầu cử trên tinh thần khoa học. Từ đó có thể đem lại những
thay đổi tích cực trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về
quá trình này, đồng thời giúp cho Đảng, Nhà nước có thể điều chỉnh quy chế bầu
cử hiện tại theo hướng dân chủ hơn.
Vì những lý do trên, việc chọn tiêu chí tính cạnh tranh làm một góc nhìn
mới để qua đó đánh giá hoạt động bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay là yêu
cầu vừa cần thiết, vừa cấp bách về cả nhận thức và công tác thực tiễn. Đây cũng
chính là mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn hướng tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, những năm qua việc nhận thức về vai trò của bầu cử trong
đời sống chính trị đã dần tăng lên. Trong những năm qua đã có một số công trình
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
nghiên cứu về hệ thống bầu cử nói chung và chế độ bầu cử ĐBQH đã được công
bố như:
- TS. Vũ Thị Loan với công trình (Luận văn thạc sĩ chính trị học) “Hoàn
thiện chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay” (2003), là công trình
đầu tiên nghiên cứu mang tính chuyên sâu về chế độ bầu cử Quốc hội. Trong đó,
tác giả đã đánh giá khái quát những thành công đạt được cũng như những vấn đề
đặt ra và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ bầu cử Quốc hội.
- TS.Vũ Văn Nhiêm với công trình nghiên cứu (Luận án tiến sĩ luật học)
Chế độ bầu cử ở nước ta – Những vấn đề lý luận và thực tiễn (2009) đã phân tích
những cơ sở lý luận về chế độ bầu cử và xã hội dân chủ nói chung và ở Việt
Nam nói riêng. Tác giả cũng nghiên cứu thực tiễn chế độ bầu cử ở Việt Nam và
đưa ra những kiến nghị nhằm đổi mới chế độ bầu cử để phát huy dân chủ. Tuy
nhiên, công trình nghiên cứu khá công phu về chế độ bầu cử ở Việt Nam này lại
chủ yếu tiếp cận vấn đề dưới góc độ luật học.
- TS. Đặng Đình Tân trong tác phẩm“Nhân dân giám sát các cơ quan dân
cử ở Việt Nam trong trong thời kỳ đổi mới” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006) đã khẳng định bầu cử là cách rất quan trọng và hữu hiệu mà thông
qua đó, nhân dân giám sát Quốc hội. Dưới góc độ chính trị học, một số kết luận
vừa khái quát, vừa sâu sắc về thực trạng của chế độ bầu cử nước ta đã được thể
hiện rõ trong cuốn sách này.
- PGS.TS Nguyễn Đăng Dung với cuốn “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước”
(Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006) đã chỉ ra bầu cử là cách quan
trọng để ngăn ngừa sự độc đoán, chuyên quyền đối với các thiết chế quyền lực
Nhà nước. Đây cũng là lý do tại sao các cơ quan nhà nước cũng như các quan
chức do nhân dân bầu ra phải chịu trách nhiệm trước nhân dân.
- GS-TSKH Đào Trí Úc (Chủ biên) với công trình “Xây dựng Nhà nước
Pháp quyền XHCN Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006) đã khẳng4
định vai trò quan trọng của chế độ bầu cử trong việc xây dựng Nhà nước Pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- TS. Lưu Văn Quảng với công trình: “Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp
– lý thuyết và hiện thực” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009) đã nghiên cứu
ba hệ thống bầu cử ở ba hệ thống chính trị điển hình ở các nước phát triển, hoạt
động tương đối ổn định trên các vấn đề như chức năng, nguyên tắc, công nghệ
bầu cử và các hệ quả của hệ thống bầu cử… Từ đó rút ra những giá trị phổ biến
và hạn chế của ba hệ thống đó, đồng thời đưa ra một số gợi mở cho việc đổi
mới, hoàn thiện công tác bầu cử ở Việt Nam theo hướng dân chủ và khoa học.
Bên cạnh đó, có nhiều bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí cũng
trực tiếp đề cập đến vấn đề bầu cử dưới nhiểu góc độ luật học và chính trị học,
về cả lý luận và thực tiễn rất phong phú đa dạng:
Cùng bàn về bầu cử, vai trò của bầu cử trong chính trị và mối quan hệ giữa
bầu cử với việc thực thi dân chủ, trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp có bài viết
“Bầu cử và vấn đề dân chủ” đăng (số 5/2002) của đồng tác giả PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung và Chu Khắc Hoài Dương, và bài viết “Bầu cử và vị trí, vai trò của
bầu cử” của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (số 23(98)/2007).
Dưới góc độ luật học, trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 7/2001
cũng có bài viết “Pháp luật bầu cử: một số vấn đề cần hoàn thiện” của TS. Bùi
Xuân Đức. Bài viết này đã phân tích khá cụ thể về những hạn chế của chế độ bầu
cử hiện hành và đưa ra một số giải pháp khắc phục những bất cập về đơn vị bầu
cử, về tính đại diện, về cách thức xác định kết quả bầu cử ở Việt Nam.
Cũng dưới góc nhìn luật học với hai bài viết:“Pháp luật bầu cử nhìn từ
góc độ bảo đảm tự do công bằng cạnh tranh và tính đại diện” (tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 4/2007) và “Đôi điều bình luận từ cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XII” (tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 6(101)/2007), tác giả Vũ Văn
Nhiêm đã chỉ ra một số hạn chế về mặt pháp luật bầu cử trong việc đảm bảo tính
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
thay mặt và tính cạnh tranh trong chế độ bầu cử ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra
những phương hướng khắc phục.
Từ cách đặt vấn đề “Bầu cử: bầu ai và ai bầu” (đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 23 (98), tháng 5/2007), tác giả An Khánh đã cũng chỉ ra những
bất cập trong bầu cử Quốc hội ở nước ta hiện nay như tiêu chuẩn ĐBQH, mối
quan hệ giữa cơ cấu và chất lượng đại biểu, việc cung cấp thông tin về ứng cử
viên cho cử tri, quyền bầu cử trực tiếp của cử tri, số dư trong các đơn vị bầu cử,
tình trạng bỏ phiếu thay...
Với bài viết “Thực trạng và giải pháp đổi mới công tác bầu cử ở nước ta”
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4(97)/2007, tác giả TS. Phan Xuân
Sơn đã chỉ ra những tồn tại của hệ thống bầu cử, từ đó đưa ra một số phương
hướng và giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác bầu cử ở nước ta hiện nay.
Cũng xuất phát từ nhu cầu đổi mới chế độ bầu cử, PGS.TS Thái Vĩnh
Thắng có bài viết “Một số suy nghĩ về đổi mới chế độ bầu cử đảm bảo quyền
bầu cử và ứng cử của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” đăng trên
tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2011. Bài viết đã phân tích thực trạng chế độ
bầu cử ở Việt Nam với việc chỉ ra những bất cập trong chín vấn đề chính: (1) về
việc thành lập Hội đồng bầu cử, (2) về các ứng cử viên tự ứng cử, (3) về vận
động tranh cử, (4) về đơn vị bầu cử, (5) về phương pháp xác định kết quả bầu cử,
(6) về nguyên tắc bỏ phiếu tự do, (7) về đại biểu ngoài Đảng, (8) về mối quan hệ
giữa hiệp thương và bầu cử trực tiếp, (9) về tính chất bình đẳng của lá phiếu cử
tri. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị đổi mới chế độ bầu cử
nhằm đảm bảo quyền bầu cử, ứng cử của công dân Việt Nam trong điều kiện xây
dựng nền dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền hiện nay.
Tác giả Trần Thanh Hương cũng có bài viết khá sâu sắc về “Hiệp thương
và tác động của hiệp thương đến việc phát huy tính tích cực của công dân trong
thực hiện quyền bầu cử” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4(97) năm6
2007. Bài viết đã chỉ ra những ảnh hưởng của quy trình hiệp thương giới thiệu
người ứng cử đến quyền bầu cử và ứng cử của công dân, từ đó đưa ra một số
kiến nghị nhằm đổi mới hiệp thương theo hướng dân chủ hơn.
Với việc đưa ra những tiêu chuẩn của Tuyên ngôn về Tiêu chuẩn bầu cử tự
do và công bằng, tác giả Lưu Đức Quang có bài viết“Tự do, công bằng trong
bầu cử và những liên hệ với bầu cử ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp (số 1/2007), từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới nhận
thức về bầu cử và hoàn thiện hệ thống pháp luật bầu cử ở Việt Nam hiện nay.
Với cách đặt vấn đề “Đổi mới công tác bầu cử để có một Quốc hội mang
tính thay mặt cao” (tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21/2007), tác giả Lưu Văn
Quảng đã chỉ ra một số giải pháp đổi mới hoạt động bầu cử từ việc đổi mới nhận
thức về bầu cử, tạo cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa các ứng cử viên đến việc đặt
giả thiết áp dụng hình thức đơn vị bầu cử một đại điện thay thế cho đơn vị bầu cử
đa thay mặt hiện nay. Cũng với góc nhìn đó, tác giả cũng có bài viết “Làm gì để
đổi mới công tác bầu cử Quốc hội ở nước ta hiện nay?” đăng trên Tạp chí Mặt
trận, số 41/2007. Bài viết cũng đưa ra năm giải pháp nhằm đổi mới công tác bầu
cử ở nước ta hiện nay, đó là: đổi mới cách vận động bầu cử; tăng cường
đối thoại rộng rãi, trực tiếp giữa ứng cử viên với cử tri; các ứng cử viên cần đầu tư
thời gian và trí tuệ cho việc xây dựng chương trình hành động; kiên quyết chống
gian lận, chống bệnh hình thức trong bầu cử; đa dạng hoá các hình thức bỏ phiếu.
Hướng tới cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII (2011), tác giả ThS. Nguyễn
Thanh Bình cũng có nhiều bài viết lý giải tính chất dân chủ trong quy trình bầu
cử ở nước ta, đặt biệt là trong công đoạn hiệp thương giới thiệu ứng cử viên và
vận động bầu cử như “Công khai, dân chủ và bình đẳng trong vận động bầu cử”
(tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4) và “Một quy trình dân chủ và công khai để
lựa chọn, giới thiệu người có đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội” (Tạp chí
Mặt trận, số 89). Cùng thời gian đó, tác giả Minh Vân cũng có bài “Vài nét về số
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
dư trong công tác giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân” đăng trên Tạp chí Mặt trận, số 89/2011.
Là người làm công tác thực tiễn gắn với hoạt động bầu cử, TS. Bùi Ngọc
Thanh có bài viết “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII- những vấn đề từ
thực tiễn” (Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7(103), tháng 7/2007) và “Các
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và XII – một số vấn đề đặt ra cho cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII” (Tạp chí cộng sản, số 822, năm 2011). Với
tư cách là Tổng Thư ký Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và XII, tác
giả bài viết đã chỉ ra những tồn tại của công tác bầu cử nước ta và đề xuất một số
biện pháp khắc phục.
Như vậy, một số tác giả đã bàn về tính cạnh tranh và những vấn đề liên
quan đến việc đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử Quốc hội từ khi
hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đến phân chia đơn vị bầu cử, vận động bầu
cử và cả các tổ chức phụ trách bầu cử ở Việt Nam hiện nay. Song, thực tế trên
cũng cho thấy việc nghiên cứu và đánh giá về hoạt động bầu cử Quốc hội dưới
góc độ đảm bảo tính cạnh tranh vẫn còn là một vấn đề mới. Vì vậy, đề tài “Đảm
bảo tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay” sẽ trên cơ sở
phân tích thực trạng của hoạt động bầu cử ĐBQH để chỉ ra những vấn đề tồn tại
của hệ thống và đề xuất các phương án nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu
cử theo hướng dân chủ, khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn: Trên cơ sở lý luận về tính cạnh tranh trong bầu
cử, tác giả nghiên cứu thực trạng đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động bầu
cử ĐBQH, chỉ ra một số vấn đề bất cập; từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm
đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở nước ta hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
sau:8
+ Làm rõ khái niệm, chức năng của bầu cử, các tiêu chí để đảm bảo tính
cạnh tranh trong bầu cử nói chung.
+ Nghiên cứu thực trạng tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử Quốc hội
ở nước ta hiện nay.
+ Chỉ ra những vấn đề tồn tại và đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo
tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận (phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) của chủ nghĩa Mác- Lênin.
- Nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của khoa học chính
trị hiện đại.
- Sử dụng một số phương pháp liên ngành cụ thể như so sánh, lôgic, lịch
sử…
5. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Luận văn không đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận của bầu cử, cũng không
tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của chế độ bầu cử ĐBQH, mà chỉ tập
trung nghiên cứu thực trạng đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử
ĐBQH ở Việt Nam hiện nay để làm rõ những vấn đề tồn tại và đưa ra một số
kiến nghị hoàn thiện, đổi mới.
6. Đóng góp của luận văn
- Đưa ra một cách tiếp cận mới - từ góc độ đảm bảo tính cạnh tranh trong
vấn đề hoàn thiện cơ chế bầu cử ĐBQH ở Việt Nam.
- Chỉ ra được những vấn đề tồn tại trong việc đảm bảo tính cạnh tranh
trong tổ chức và tiến trình bầu cử Quốc hội ở Việt Nam.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động
bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề bầu cử ĐBQH trong
đời sống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu các môn khoa học chính trị và hoạt động của các nhà chính trị
thực tiễn, góp phần hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.10
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẦU CỬ
VÀ TÍNH CẠNH TRANH TRONG BẦU CỬ
1.1. Bầu cử và chức năng của bầu cử trong hệ thống chính trị
1.1.1. Sự ra đời của thể chế bầu cử
Khi các giai cấp xuất hiện, nhà nước được hình thành với tư cách là một
thiết chế đứng trên xã hội, đứng ngoài xã hội có chức năng thực thi ý chí của giai
cấp thống trị, điều hòa những mâu thuẫn giai cấp, duy trì sự tồn tại, ổn định và
phát triển của xã hội. Với sự phát triển của các hình thái nhà nước và ý thức chính
trị của các thành viên trong xã hội, nhân dân đòi hỏi được tham gia vào quản lý xã
hội và giải quyết các công việc của nhà nước. Sự tham gia này quyết định tính
chất dân chủ của nhà nước đó. Vì thế có thể hiểu, dân chủ là hình thức thực thi
quyền lực trong xã hội dựa trên cơ sở công nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực, công nhận quyền tham gia của người dân trong việc giải quyết các công việc
quốc gia, phù hợp với quyền tự do và quyền công dân của họ [94, tr.234]. Nói
cách khác, cùng với sự phát triển của nhà nước, nhu cầu dân chủ cũng ngày càng
phát triển, dân chủ là khái niệm gắn liền với nhà nước. Nhà nước dân chủ là nhà
nước mà ở đó quyền lực thuộc về nhân dân, dân bầu ra các cơ quan nhà nước và
ủy quyền cho họ để thực hiện ý chí và phục vụ lợi ích của dân. Dân chủ trở thành
khát vọng và mục tiêu của nhân loại trong xây dựng chế độ chính trị, chế độ nhà
nước. Cho đến nay trên thế giới có hai hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước của mình là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là mọi quyết định mang danh quyền lực nhà nước đều
phải do nhân dân trực tiếp thông qua bằng hình thức bỏ phiếu phúc quyết – tức là
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
thông qua trưng cầu dân ý. Với cách đó, dân chủ trực tiếp thường chỉ
thực hiện trong điều kiện có ít người tham gia vào các quá trình chính trị trong
một phạm vi hẹp. Do đó, cách làm này hiện nay chưa phổ biến do quy mô lãnh
thổ ngày càng lớn và số lượng dân cư ngày càng tăng của các quốc gia. Bên cạnh
đó, sự chênh lệch về trình độ văn hóa của các nhóm dân cư, tính phức tạp và
khẩn trương của công việc quản lý xã hội, của việc đưa ra các quyết định chính
trị, kinh tế… khiến cho hình thức dân chủ trực tiếp không phải lúc nào cũng thực
hiện được. Lúc này cần thiết phải có một hình thức dân chủ khác để cùng với
hình thức dân chủ trực tiếp đảm bảo cho quyền lực của nhân dân được thực hiện,
đó là dân chủ gián tiếp hay còn gọi là dân chủ đại diện.
Dân chủ thay mặt là hình thức nhân dân ủy quyền cho những người đại
diện của mình thông qua các cuộc bầu cử để nhằm giải quyết các công việc của
nhà nước, thực hiện ý chí và phục vụ lợi ích của nhân dân. Song, mặc dù đã ủy
quyền nhưng nhân dân vẫn thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của các
đại diện, thậm chí có quyền bãi miễn họ nếu họ không làm đúng chức trách và
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong tác phẩm "Tinh thần
pháp luật", Montesquieu cho rằng: “Dân chúng có quyền lực tối cao phải tự
mình làm lấy những điều có thể làm tốt được, còn những điều mà dân không thể
làm tốt được thì phải giao cho các vị bộ trưởng thừa hành. Các vị bộ trưởng nếu
không do dân cử thì không phải là của dân. Châm ngôn cơ bản của chính thể dân
chủ là: dân bầu ra bộ trưởng tức là bầu ra người quan chấp chính để cai trị
mình.” [47, tr.48]. Như vậy, bầu cử là sản phẩm trực tiếp của dân chủ, là hình
thức biểu hiện của dân chủ đại diện. Dân chủ thay mặt là quyền lực của nhân dân
được thực hiện bằng người thay mặt và cơ quan đại diện.
Việc tiến hành bầu cử bắt đầu manh nha xuất hiện từ thời chiếm hữu nô lệ,
khi tầng lớp quý tộc chủ nô họp đại hội để lựa chọn và ủy quyền cho những đại diện
thành lập các cơ quan nhà nước để bảo vệ lợi ích cho tầng lớp, giai cấp mình như12
Viện nguyên lão, Đại hội nhân dân, Hội đồng thành phố... ở nhà nước Hy Lạp – La
Mã cổ đại. Đến thời kỳ Trung cổ, các cuộc bầu cử mang ý nghĩa dân chủ đã bị loại
bỏ do sự chi phối của tôn giáo. Các cuộc bầu cử với các tiêu chuẩn tự do, công bằng
và cạnh tranh, là những phát minh gắn liền với sự phát triển của loài người từ thời
kì cận hiện đại khoảng giữa thế kỷ XVIII đến nay. Việc thực hiện bầu cử như thế
nào cũng phản ánh trình độ phát triển về chính trị của một quốc gia và là một tiêu
chí cơ bản của một xã hội dân chủ.
1.1.2. Khái niệm bầu cử và các khái niệm liên quan
1.1.2.1. Khái niệm bầu cử
Có nhiều cách hiểu khác nhau về bầu cử, tùy vào góc độ nghiên cứu và
phương pháp tiếp cận khác nhau mà các tác giả đưa ra những định nghĩa khác
nhau về khái niệm này. Nhìn chung, khái niệm bầu cử được hiểu theo hai nghĩa
rộng và hẹp.
Từ bầu cử (election) có nguồn gốc từ từ eligere trong tiếng Latin, có nghĩa
là “để lựa chọn”, nói một cách dễ hiểu là trong một số đông chọn ra một hay
một số người để thay mặt cho ý chí nguyện vọng của tập thể số đông đó. Xã hội
càng phát triển, tính thay mặt ngày càng cần thiết và trở nên phổ biến trong tất cả
các hoạt động của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hóa… Theo đó,
bầu cử là một hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người, là phương
thức cơ bản để bầu ra những người lãnh đạo trong một phạm vi cộng đồng nhất
định như một cơ quan, tổ chức, một địa phương, thậm chí là của một quốc gia,
hay chỉ đơn giản trong một câu lạc bộ nào đó.
Với cách tiếp cận đó, trong Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, tác
giả Jay M.Shafritz đã định nghĩa “bầu cử là một quá trình lựa chọn một hay nhiều
người, cho một chức vụ công hay tư, từ nhiều ứng cử viên khác nhau” [64, tr.315].
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Đồng nhất với quan điểm trên, tác giả Vũ Hồng Anh trong tác phẩm Chế
độ bầu cử ở một số nước trên thế giới hiện nay, cũng cho rằng: “Bầu cử là thủ
tục mà theo đó một nhóm người xác định (nhân dân, cử tri, tập thể, cá nhân) bầu
ra một hay nhiều người để thực hiện một chức năng xã hội nào đó.” [2, tr.10]
Trong cuốn Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp – Lý thuyết và hiện thực,
tác giả Lưu Văn Quảng đã đưa ra một định nghĩa mang tính tổng quát và toàn diện
như sau: “bầu cử hiểu theo nghĩa rộng là sự tổng hợp của các ý thức, hành vi của
các cá nhân và diễn ra khi việc đưa ra quyết định lựa chọn không thuộc thẩm
quyền của một cá nhân cụ thể. Nó là cách thức để lựa chọn những con người thực
hiện một nhiệm vụ cụ thể, trong một cơ cấu xã hội nhất định.” [60, tr.16]
Tóm lại, nội dung cơ bản của khái niệm bầu cử là cách thức để người dân
chọn lựa giữa các ứng cử viên cho một vị trí công việc để thực hiện một chức
năng xã hội nhất định. Đó là cách hiểu theo nghĩa rộng, còn hiểu theo nghĩa hẹp,
bầu cử thường được tiếp cận từ hai góc độ là chính trị học và luật học.
Các tác giả trong cuốn Tập bài giảng chính trị học định nghĩa: “Bầu cử là
một hình thức ủy quyền và biểu thị sự tín nhiệm của công dân - cử tri (hoặc
người bầu cử) bằng những nguyên tắc và thủ tục nhất định để chọn (ít nhất là từ
hai lấy một) người thay mặt của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc
các chức vụ của một thể chế chính trị.” [26, tr.289]
Theo cách định nghĩa đó, bầu cử gắn liền với một chế độ chính trị, với nhà
nước, trong đó, bầu cử không chỉ là cách lập ra tổ chức bộ máy nhà nước
mà còn thể hiện ý thức chính trị và thái độ chính trị của người dân trước sự quản
lý điều hành của chính phủ.
Dưới góc độ luật học, các tác giả của cuốn Tổ chức và hoạt động của quốc
hội một số nước quan niệm rằng: “Bầu cử là một trong những chế định pháp luật
quan trọng của ngành luật hiến pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành các cơ
quan thay mặt - cơ quan quyền lực nhà nước. Bầu cử là việc công dân của một14
nước lựa chọn những người thay mặt để trao quyền cho họ thay mặt mình giải
quyết các vấn đề trọng đại của đất nước” [91, tr.239]. Cách định nghĩa này coi
bầu cử là tổng thể các quy định về tiến trình bầu cử chứa đựng trong các văn bản
có hiệu lực pháp lý cao nhất là hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, là
cách để người dân thực hiện quyền công dân, quyền tham gia quản lý đất
nước thông qua người đại diện. Phương pháp tiếp cận này được dùng phổ biến
trong các nghiên cứu về luật hiến pháp và các văn bản pháp luật.
Như vậy, bầu cử không chỉ là cách thức để lựa chọn người lãnh đạo chính
trị mà còn quy định một cách căn bản tính chính đáng của quyền lực chính trị và
tính hiệu quả của việc thực thi quyền lực chính trị. Vì thế, cùng với sự phát triển
của nhà nước, bầu cử ngày càng mang tính chính trị - pháp lý sâu sắc. Hiện nay,
những cuộc bầu cử phổ biến trong nền chính trị hiện đại bao gồm bầu cử quốc
hội (hay nghị viện), hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố; một số nước còn bầu cử
trực tiếp một số chức danh quan trọng như bầu cử tổng thống (hay thủ tướng),
thống đốc bang hay thị trưởng các tỉnh/thành phố... Tùy vào vai trò, vị trí của đối
tượng được bầu trong hệ thống chính trị mà bầu cử có quy mô lớn nhỏ khác nhau
nhưng dù thế nào bầu cử cũng phải tuân theo những nguyên tắc, khuôn khổ mà
luật pháp đã quy định.
Trong luận văn này, thuật ngữ bầu cử được sử dụng theo nghĩa hẹp.
1.1.2.2. Các khái niệm liên quan
Trong ngôn ngữ chính trị - pháp lý, gắn liền với khái niệm bầu cử là một
loạt các khái niệm đi kèm, đó là: hệ thống bầu cử, chế độ bầu cử, hệ thống bỏ
phiếu...
 Khái niệm hệ thống bầu cử
Theo nghĩa hẹp, hệ thống bầu cử chính là hệ thống bỏ phiếu, bao gồm các
thủ tục, quy tắc và luật lệ để xác định người chiến thắng trong các cuộc bầu cử.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
Theo nghĩa rộng, hệ thống bầu cử (electoral system) là một chỉnh thể bao
gồm các nguyên tắc, các quy định của pháp luật về bầu cử, cùng các mối quan hệ
xã hội được hình thành trong quá trình bầu cử [60, tr.239]. Theo phân tích của
TS. Lưu Văn Quảng, có thể nói, hệ thống bầu cử bao gồm nhiều yếu tố, nhiều
quan hệ. Nó bao gồm cả những quy định thành văn (hiến pháp và luật) và những
quy định không thành văn (các phong tục, tập quán, văn hoá chính trị); cả những
quy định chính thức (quy định chung của nhà nước) và những quy định không
chính thức (như điều lệ, quy định hay văn bản của các đảng, các nhóm lợi ích và
các lực lượng xã hội) tham gia vào quá trình bầu cử. Các yếu tố, các quan hệ xã
hội của hệ thống bầu cử được tạo thành theo một trình tự nhất định, từ việc xác
định thời gian bầu cử, phân chia đơn vị bầu cử, thành lập cơ quan phụ trách bầu
cử, lập danh sách cử tri, giới thiệu người ra ứng cử, đến bỏ phiếu, kiểm phiếu và
công bố người thắng cử… Tất cả những quan hệ được hình thành theo trật tự
trên gọi là trình tự bầu cử.
Trong luận văn này, thuật ngữ hệ thống bầu cử được hiểu theo nghĩa rộng,
song luận văn không đi sâu vào phân tích tất cả các hoạt động của quá trình bầu
cử mà chỉ tập trung vào các yếu tố, các quan hệ có ảnh hưởng đến vấn đề đảm
bảo tính cạnh tranh trong bầu cử mà thôi.
 Khái niệm chế độ bầu cử
Chế độ bầu cử là khái niệm gắn liền với nhà nước, với chế độ chính trị của
một quốc gia - dân tộc nhất định. Nói đến chế độ bầu cử cần xác định rõ là chế
độ bầu cử của nhà nước nào, không có chế độ bầu cử mang tính chung chung. Vì
vậy, thông qua chế độ bầu cử có thể cho phép xác định được nguồn gốc, bản chất
và hình thức của nhà nước đó. Thuật ngữ chế độ bầu cử cũng được hiểu theo hai
nghĩa nghĩa rộng và hẹp khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, có thể hiểu chế độ bầu cử bao gồm những quy định được
chứa đựng trong những văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất (hiến pháp) và16
trong các văn bản pháp luật nói về nguyên tắc bầu cử, trình tự lập danh sách cử
tri, trình tự giới thiệu ứng cử viên, trình tự vận động bầu cử cho đến các quy định
nói về cách thức xác định kết quả bầu cử [17, tr.111-112].
Hoặc, chế độ bầu cử bao gồm tổng thể các nguyên tắc, các quy định pháp
luật quy định trật tự bầu ra các cơ quan thay mặt quyền lực nhà nước, điều chỉnh các
quan hệ xã hội hình thành trong quá trình bầu cử. Trật tự bầu cử được quy định bởi
một loạt các văn bản quy phạm pháp luật gọi là luật bầu cử. Những cách thức, thủ
tục bầu cử được luật bầu cử quy định tạo thành hệ thống bầu cử. [22, tr.240]
Như vậy theo nghĩa hẹp, chế độ bầu cử là hình thức biểu hiện ra bên ngoài
của tổng thể các quy định của pháp luật về bầu cử.
Theo nghĩa rộng, chế độ bầu cử là tổng thể những quan hệ xã hội có trật tự
gắn với cuộc bầu cử vào cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Những
quan hệ này hợp thành trình tự bầu cử [2, tr.15].
Cùng đồng nhất với quan điểm trên, trong Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, tác giả Nguyễn Đăng Dung cũng nêu quan điểm: Chế độ bầu cử được xác
định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tiến
hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri, cho đến khi kết thúc việc xác
định được danh sách những người trúng cử. [17, tr.158]
Thống nhất với nội hàm của khái niệm bầu cử trong các quan điểm nói
trên, có thể khái quát rằng chế độ bầu cử là một bộ phận quan trọng trong thể chế
chính trị của bất kì một quốc gia dân tộc nào, đó cũng là một trong những
cách thành lập cơ quan quyền lực nhà nước. Chế độ bầu cử là một chỉnh
thể bao gồm các nguyên tắc, các quy định của pháp luật về bầu cử và các mối
quan hệ xã hội được hình thành trong tiến trình bầu cử.
Như vậy, xét về nội hàm, thuật ngữ “chế độ bầu cử” tương đối đồng nhất
với thuật ngữ “hệ thống bầu cử”. Bởi xét về mặt ngôn ngữ, trong tiếng Anh,
“system” vừa có nghĩa là “hệ thống” vừa có nghĩa là “chế độ”. Tuy nhiên, ở Việt
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Nam khi nói đến bầu cử, chúng ta thường sử dụng thuật ngữ “chế độ bầu cử”,
còn “hệ thống bầu cử” lại được sử dụng rất phổ biến trong nền chính trị phương
Tây hiện đại. Song dù sử dụng thuật ngữ nào thì ở mỗi nước, chế độ bầu cử một
mặt cần thiết kế phù hợp với thể chế chính trị và các đặc điểm của nước đó, đồng
thời tiếp thu những hạt nhân hợp lý, tiến bộ, mang tính phổ quát của bầu cử tự
do, công bằng. Đó là công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ quốc gia nào
khi xây dựng nền dân chủ mới, trong đó có Việt Nam.
 Khái niệm hệ thống bỏ phiếu
Hệ thống bỏ phiếu (voting system) là một tập hợp những thủ tục để xác
định một hay một nhóm người vào các cơ quan quyền lực. Các thủ tục này bao
gồm các quy định về thiết kế và sắp xếp lá phiếu, quá trình bỏ phiếu, đếm phiếu
và cách thức để xác định người chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Như vậy,
khái niệm hệ thống bỏ phiếu được giới hạn trong phạm vi các thủ tục bỏ phiếu
và công thức tính phiếu. Do đó, thực ra thuật ngữ “hệ thống bỏ phiếu” chính là
“hệ thống bầu cử” hiểu theo nghĩa hẹp và ngược lại.
1.1.3. Chức năng của bầu cử trong hệ thống chính trị
Trong xu thế xây dựng xã hội dân sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới
hiện nay, bầu cử đang ngày càng trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống
chính trị dân chủ hiện đại. Tìm hiểu hệ thống bầu cử của mỗi nước cũng cho
chúng ta thấy được một phần quan trọng trong bức tranh chính trị của một quốc
gia. Nói cách khác, bầu cử có vai trò to lớn trong hệ thống chính trị của tất cả các
quốc gia dân chủ. Nó thực hiện các chức năng quan trọng của nền chính trị, như:
(1) Xác định tính chính đáng của quyền lực nhà nước, hợp pháp hóa hoạt động của
chính quyền; (2) Giúp người dân thực hiện sự ủy quyền và lựa chọn người đại
biểu nhân dân; (3) Lựa chọn đường lối hợp lòng dân, xây dựng sự đồng thuận
trong xã hội; (4) Là công cụ quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà
nước, chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của nhà nước.
phải được công khai đến toàn thể đảng viên trong địa phương đó; (3) các ứng cử
viên phải cạnh tranh bình đẳng với nhau trên cơ sở những nguyên tắc chung
được thiết lập. Họ có quyền tự giới thiệu, tự “quảng cáo” về bản thân mình, bộc
lộ tâm huyết, mong muốn của mình trước các đảng viên khác. Trên cơ sở đó, với
tinh thần dân chủ, các đảng viên sẽ quyết định chọn ai là người “đủ tâm, đủ tầm”
ra tranh cử vào Quốc hội.
Bên cạnh đó, Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của mình. Đây là
vấn đề cốt tử, có ý nghĩa then chốt đồng thời là công việc cấp thiết và thường xuyên
của công tác xây dựng Đảng. Đội ngũ này phải vững vàng về chính trị, giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất, đạo đức tốt, thực sự có uy tín trong quần
chúng, đặc biệt phải có bản lĩnh, kĩ năng hoạt động chính trị. Khi các điều kiện trên
được đáp ứng thì sự trúng cử của các ứng cử viên do Đảng giới thiệu là tất yếu.
3.2.2.4. Quy định và hướng dẫn một cách cụ thể, công khai và bình đẳng các
bước trong quy trình hiệp thương để tuyển chọn được những ứng cử viên thực sự
xuất sắc. Nói cách khác, cần minh bạch hóa, luật hóa các công đoạn này.
 Về vấn đề ứng cử:
- Cần cụ thể hóa và quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn ĐBQH. Trong đó,
tuồi đời của người ra ứng cử nên từ 25 trở lên, công tác ít nhất từ 3 năm trở lên
để đảm bảo sự chín chắc cần thiết. Người ứng cử phải đạt đến một trình độ học
vấn, chuyên môn, nghiệp vụ nhất định (đủ năng lực tham gia xây dựng pháp luật,
đủ khả năng giám sát hoạt động của các đối tượng bị giám sát, đủ năng lực tư
duy để bấm nút quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước) thì mới được
ứng cử. Như vậy, sẽ nâng cao chất lượng người ứng cử ngay từ đầu.
- Cần có những quy định riêng, cụ thể đối với người tự ứng cử như điều
kiện, thủ tục, quy trình xác lập tư cách ứng cử viên... Tham khảo hệ thống bầu cử
của nhiều nước trên thế giới chúng ta thấy các điều kiện để nộp hồ sơ tự ứng cử
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi105
được quy định rất rõ như: thời hạn cư trú, công tác; thu thập chữ ký của cử tri;
nộp tiền đặt cọc hay giới thiệu của ĐBQH khoá trước… Việc quy định thêm
điều kiện tự ứng cử về mặt hình thức đã phần nào làm hạn chế quyền tự ứng cử
của công dân, nhưng thực tế lại có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao ý thức,
trách nhiệm của công dân khi nộp đơn ứng cử, hạn chế tình trạng tự ứng cử tuỳ
tiện. Do đó, nên chăng, pháp luật bầu cử ở nước ta cần quy định bổ sung các điều
kiện về thu thập một số lượng hợp lý chữ ký nhất định của cử tri, hay được
ĐBQH khoá trước giới thiệu... Đây là những yếu tố cơ bản ban đầu đánh giá sự
tín nhiệm của cộng đồng xã hội đối với ứng cử viên, tạo chỗ đứng vững chắc hơn
cho các ứng viên tự do trong các hội nghị hiệp thương khi họ không có “chỗ
dựa” từ cơ quan, tổ chức như những người được đề cử. Bên cạnh đó, có thể xem
xét thêm biện pháp “đặt cược” tài sản. Biện pháp này có ưu điểm là làm cho các
ứng cử viên thận trọng suy xét, cân nhắc và có ý thức rõ ràng về việc trách
nhiệm khi ra ứng cử. Tuy nhiên, vấn đề này đòi hỏi phải có sự xem xét, nghiên
cứu kỹ trước khi áp dụng, bởi về tâm lý xã hội, nó có thể chưa dễ dàng được
chấp nhận trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
 Về việc dự kiến phân bổ giới thiệu người ứng cử:
- Theo hướng dẫn của Ban thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt
Nam về dự kiến phân bổ giới thiệu người ứng cử “phải nhiều hơn ít nhất gấp
hai lần trở lên so với số lượng đại biểu được bầu”. Song với thực tế hiện nay,
bên cạnh việc không nên ấn định số lượng người ra ứng cử, cần tăng số lượng
này để thu hút đông đảo người có tài ra ứng cử. Để đảm bảo số dư cao cho
cuộc bầu cử chính thức, ngay từ khâu đầu tiên của công tác nhân sự, số lượng
người ứng cử cần ít nhất gấp 3 lần trở lên so với số đại biểu được bầu. Vấn đề
này nên chính thức đưa vào luật để thống nhất thực hiện ở tất cả cả tỉnh, thành106
phố trong cả nước, tránh tình trạng có địa phương cố gắng thực hiện đúng, đạt
yêu cầu, có địa phương thì không.
- Cần chấm dứt tình trạng cơ quan Trung ương giới thiệu ứng viên về địa
phương là giới thiệu luôn số tròn để đảm bảo việc trúng cử, còn dưới địa phương
phải giới thiệu số dư nhiều để làm “quân xanh” cho đại biểu Trung ương. Do dó,
việc giới thiệu ứng cử viên ở Trung ương cũng cần giới thiệu có số dư để cử tri
có thêm sự lựa chọn tránh tình trạng hầu hết các ứng viên trung ương với vị trí
và lợi thế của mình thường có tâm lý đã trở thành ứng cử viên chính thức là sẽ
trúng cử nên không ra sức vận động tranh cử nữa.
 Về hội nghị cử tri ở nơi cư trú và nơi công tác:
- Cần qui định rõ các điều kiện tiến hành hội nghị cử tri, nhất là tỉ lệ cử tri
có mặt tối thiểu. Chẳng hạn phải có mặt ít nhất 50 % cử tri, chứ không phải chỉ
có các thay mặt cử tri, thay mặt các hộ hay có nơi nhiều, có nơi rất ít, không có
tiêu chí thống nhất như hiện nay.
- Việc lấy ý kiến cử tri phải đúng với ý nghĩa là một kênh thông tin để
tham khảo, góp phần đánh giá được mức độ tín nhiệm của ứng cử viên. Không
nên coi kết quả tín nhiệm của cử tri đối với ứng cử viên là yếu tố quyết định,
biến việc lấy ý kiến cử tri thành một cuộc bầu cử trước để loại bỏ ứng cử viên
ngay từ công đoạn này, đặc biệt là ở tổ dân phố - nơi các ứng cử viên cư trú vì
bản thân hoạt động của tổ dân phố rất hình thức. Điều này phải quán triệt thực
hiện ngay và cũng phải nói rõ cho các ứng cử viên biết để khuyến khích những
người có tài, có đức ra tự ứng cử.
- Thống nhất qui định bằng hình thức bỏ phiếu kín nhằm phát huy dân
chủ, tạo điều kiện cho cử tri có khả năng thể hiện đúng chính kiến của mình trên
phiếu tín nhiệm và đảm bảo sự bình đẳng giữa các ứng cử viên.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi107
- Mặt khác, vì mục đích của hội nghị cử tri không phải là việc đóng góp ý
kiến cho các ứng cử viên để các ứng cử viên tiếp thu, sửa chữa, mà đây là hình
thức “đo” sự tín nhiệm của các ứng cử viên. Do vậy, không nên để ứng cử viên
có mặt trong hội nghị này. Việc qui định thống nhất các ứng cử viên không có
mặt trong hội nghị cử tri sẽ là biện pháp quan trọng đảm bảo tính khách quan,
trung thực, bình đẳng đối với các ứng cử viên, vì các nhận xét đối với các ứng cử
viên sẽ thẳng thắn hơn, trung thực hơn, tránh sự e dè, nể nang khi bỏ phiếu.
Ngoài ra, cần quy định kéo dài thời gian chuẩn bị công tác hiệp thương,
tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức các bước hiệp thương cẩn thận, chu đáo, đặc
biệt với các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh khi mà số ứng cử viên (cả
trung ương và địa phương) là nhiều nhất cả nước hiện nay.
3.2.2.5. Tiến tới xóa bỏ hình thức hiệp thương trong bầu cử Quốc hội
Trong điều kiện về mặt bằng dân trí chưa cao, chưa đồng đều và điều kiện
về thông tin chưa thực sự bùng nổ, công tác hiệp thương cho phép các tổ chức của
nhân dân và người thay mặt các ngành nghề, giới lựa chọn sơ bộ trước khi cử tri
lựa chọn, để nâng cao chất lượng ứng cử viên là điều không thể phủ nhận. Do đó,
công tác hiệp thương ở thời điểm hiện tại vẫn là cần thiết. Song xét về lâu dài,
những hạn chế của hiệp thương sẽ làm suy giảm bản chất dân chủ của bầu cử.
Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng “không nên tiếp tục duy trì quy trình
hiệp thương” trong bầu cử ở nước ta, vì “nhân dân không trực tiếp thể hiện ý chí
trong việc loại bỏ sơ bộ người tham gia ứng cử…” và “hạn chế của hiệp thương
là thuộc về bản chất, khó hay không thể khắc phục được nếu như hiệp thương
vẫn còn tồn tại” [32, tr.34-35]. Nên nhớ rằng một cuộc bầu cử dân chủ cần
để cho người dân tự do lựa chọn và “không có bất kỳ một tổ chức nào có thể
thay mặt nhân dân thực hiện quyền lựa chọn đó, bởi quyền cử của công dân là
quyền bầu cử trực tiếp” [78, tr.10]. Do đó, trong một phương án xa hơn cần tính
đến, chúng ta nên tiến tới bỏ hiệp thương như kiểu hiện nay, thay vào đó cần108
nghiên cứu để thiết kế hệ thống bầu cử hai vòng. Vì thực chất, hiệp thương chính
là một công đoạn sàng lọc để chọn ra các ứng cử viên xuất sắc hơn, có thể nói nó
tương đương với cuộc bầu cử sơ bộ (vòng 1) của các nước có hệ thống bầu cử
hai vòng. Theo đó, các ứng cử viên đủ điều kiện và tiêu chuẩn sẽ được đưa vào
danh sách bầu cử chứ không qua hiệp thương để lập danh sách sơ bộ nữa. Vòng
một chủ yếu có mục đích là tuyển chọn ứng cử viên, những ứng cử viên có số
phiếu cao hơn (theo một giới hạn đã quy định trước) sẽ bước vào cuộc bầu cử
vòng 2 để tìm ra người xứng đáng nhất. Cách làm này tuy có tốn kém hơn song
kết quả bầu cử sẽ tiệm cận hơn ý chí của nhân dân và các ứng cử viên cũng sẽ
thực sự cảm giác công bằng nếu khi bầu cử trong vòng đầu hay vòng 2 mà bị
loại. Như vậy, vấn đề đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong việc giới thiệu ứng cử
viên đã được giải quyết về cơ bản. Vấn đề này sẽ được tiếp tục đề cập trong phần
đảm bảo tính cạnh tranh trong việc phân chia đơn vị bầu cử.
3.2.3. Đảm báo tính cạnh tranh trong vận động bầu cử
Trong các cuộc bầu cử, điều kiện quan trọng để cử tri chọn được người
thay mặt xứng đáng là họ phải được cung cấp thông tin một cách đầy đủ và
chính xác về ứng cử viên. Với ý nghĩa đó, một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến dân chủ không thực chất, dẫn đến bầu nhầm, bầu chưa đúng người có
tài, đức của cử tri, là sự thiếu thông tin. Vậy làm thế nào để cử tri có thể tiếp cận
được các thông tin trung thực, chính xác và khách quan về các ứng cử viên?
3.2.3.1. Tăng cường đối thoại rộng rãi, trực tiếp giữa ứng cử viên với cử tri, xoá
bỏ tình trạng chỉ gặp gỡ các “ thay mặt cử tri”
Cần tạo điều kiện và cho phép tất cả cử tri đều có cơ hội như nhau trong
tiếp xúc, chất vấn, đối thoại với các ứng cử viên. Không nên chỉ tiếp xúc một
chiều mà cần tạo điều kiện để cử tri có thể tìm hiểu hoạt động của người đại biểu
tương lai của mình tại nơi công tác, nơi cư trú hay những nơi mà trước khi ra
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi109
ứng cử người đó đã hoạt động. Kiên quyết chấm dứt tình trạng “dàn xếp”, chỉ
cho phép “ thay mặt cử tri” gặp gỡ các ứng cử viên tranh cử, thời gian tiếp xúc
giữa cử tri với ứng viên dài cần quy định dài hơn để ứng cử viên có điều kiện
gặp gỡ được đông đảo cử tri hơn. Sự tiếp xúc, cách diễn giải, khả năng phân tích,
sự thuyết phục trong diễn thuyết... của ứng cử viên cũng là một kênh thông tin
quan trọng để cử tri hiểu biết thêm về họ. Trên cơ sở đó, cử tri sẽ là những người
quyết định sáng suốt đó có phải là người đại biểu của mình hay không.
3.2.3.2. Các phương tiện TTĐC cần có vai trò tích cực hơn trong quá trình bầu
cử, đặc biệt là trong việc cung cấp thông tin về các ứng cử viên
- Trước hết, với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay, có thể
thiết lập những trang web chung cho các ứng cử viên hay từng ứng cử viên với
một ngân hàng dữ liệu về lý lịch, tiểu sử, thành tích công tác thực tế, kể cả bản
kê khai tài sản theo luật định và chương trình hành động… Cử tri muốn tìm hiểu
về ứng cử viên nào có thể kích vào tên của họ trong một danh sách chung, thế là
một seri các thông tin về ứng cử viên đó với các góc độ khác nhau sẽ đáp ứng
mọi nhu cầu thông tin của cử tri. Những thông tin này ngoài việc lưu giữ trên
internet cũng phải được công khai ở khu vực bầu cử để cử tri tham khảo khi bầu
cử, đồng thời đây cũng là phương tiện để cử tri theo dõi, giám sát quá trình và
khả năng thực hiện nhiệm vụ đại biểu nhân dân cử ứng cử viên khi trúng cử.
- Hiện nay, các phương tiện TTĐC ở nước ta chủ yếu mới chỉ dừng ở việc
đưa tin một cách chung chung, còn ít quan tâm đến các ứng cử viên cụ thể. Các
phương tiện TTĐC cần cung cấp những thông tin có chiều sâu hơn, tiến tới
phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của từng ứng cử viên để giúp cử tri định
hướng cho lựa chọn của mình trong ngày bầu cử, vì không phải cử tri nào cũng
đủ trình độ và hiểu biết để nhìn nhận đúng về một ứng cử viên, kể cả khi họ đã
được biết về chương trình hành động hay thành tích của họ. Tuy nhiên, đây là
vấn đề hết sức nhạy cảm do sức mạnh “uốn cong ngòi bút” của TTĐC. Vấn đề110
đặt ra là cần nghiên cứu một cơ chế đưa tin và bình luận vừa đảm bảo tính dân
chủ, vừa đảm bảo tính trung thực để tránh tình trạng các ứng cử viên sử dụng
các phương tiện TTĐC để “đánh bóng” tên tuổi bản thân hay để “đả kích” các
ứng cử viên khác. Cũng phải nói thêm, các phương tiện TTĐC cần bám sát
hoạt động nghị trường giữa các kỳ bầu cử để cung cấp thông tin cho cử tri về
những đại biểu đã được bầu hoạt động ra sao, có cống hiến, đóng góp gì với vai
trò đại điện của người dân. Có như thế, cử tri mới có cơ sở để lựa chọn, cân
nhắc xem có nên tiếp tục bỏ phiếu cho những ứng đại biểu tái cử hay không.
- Ngoài ra có thể tổ chức những cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp
với sự tham gia tình nguyện của các ứng cử viên (vì ứng cử viên nào không tham
gia thì vô hình chung đã tự đánh mất điểm của mình). Trong đó, các ứng cử viên
không những trả lời những câu hỏi của nhà báo mà cả những thắc mắc của cử tri
gọi điện trực tiếp hay gửi qua mạng trực tuyến. Điều này buộc các ứng cử viên
phải có trách nhiệm hơn với những gì đã nói đồng thời cũng giúp cho các cử tri
hiểu hơn về những người thay mặt cho mình.
3.2.3.3. Cho phép ứng cử viên được tự do vận động bầu cử trong khuôn khổ
nhất định
Cần nghiên cứu cơ chế cho phép các ứng cử viên được tự do vận động
bầu cử trong một khuôn khổ nhất định được luật hóa, chứ không nhất thiết phải
thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền như hiện nay. Như vậy, các ứng
cử viên sẽ chủ động hơn và có nhiều cơ hội hơn để thể hiện năng lực của bản
thân. Vì với cách làm như hiện nay, các ứng cử viên thường có tâm lý thụ động,
“chờ đợi” sự sắp xếp của tổ chức.
Trước hết, có thể cho phép các ứng cử viên được tự vận động tài chính
trong giới hạn nhất định (cần nghiên cứu kĩ vấn đề này sao cho tương thích với
chế độ chính trị nước ta) để trang trải chi phí cho vận động bầu cử. Các ứng cử
viên không nhất phải bỏ tiền túi ra để vận động bầu cử, họ có thể chứng minh
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
W Thiết kế cầu trục hai dầm kiểu hộp đảm bảo yêu cầu về thông số hoạt động và đặc tính kỹ thuật cho trước Luận văn Kinh tế 0
X Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước ta Văn hóa, Xã hội 0
S Nghiên cứu việc đảm bảo an toàn thông tin trong hệ thống tính toán lưới Hệ Thống thông tin quản trị 0
H Quốc hội với việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 Luận văn Luật 0
V giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
T kỹ thuật khai phá luật kết hợp có bảo đảm tính riêng tư trong các tập giao dịch phân tán ngang Công nghệ thông tin 0
D Nghiên cứu đảm bảo tính riêng tư trong khai phá dữ liệu Công nghệ thông tin 0
H Hướng dẫn Backup registry trên win 8, bảo đảm an toàn máy tính An toàn - Tối ưu hệ thống 1
C Tiểu luận: bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Tài liệu chưa phân loại 0
H Đề án Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top