tho123tho321
New Member
Download Đề tài Đánh giá hiện trạng và biện pháp thu gom, xử lý chất thải rắn tại một số bệnh viện trên địa bàn tỉnh Gia Lai
Đối với các nhân viên y tế do nhu cầu công việc phải tiếp xúc và xử lý loại chất thải gây độc gen tế bào mà mức độ ảnh hưởng và chịu tác động từ các rủi ro tiềm tàng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như tính chất, liều lượng gây độc của chất độc và khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Quá trình tiếp xúc với các chất độc trong công tác y tế có thể xảy ra trong lúc chuẩn bị hay trong quá trình điều trị bằng các thuốc đặc biệt hay bằng phương pháp hoá trị liệu. Những cách tiếp xúc chính là hít phải hoá chất có tính nhiễm độc ở dạng bụi hay hơi mùi qua đường hô hấp, bị hấp thụ qua da do tiếp xúc trực tiếp, qua đường tiêu hoá do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc. Việc nhiễm độc qua đường tiêu hoá thường là do ảnh hưởng của những thói quen xấu, chẳng hạn như dùng miệng để hút ống pipet trong các công việc như khi định lượng dung dịch, xét nghiệm sinh hoá. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch thể và chất tiết nhất là các bệnh phẩm cần xét nghiệm của những bệnh nhân đang trong giai đoạn điều trị bằng phương pháp hoá trị liệu.
Độc tính đối với tế bào của nhiều loại thuốc chống ung thư là tác động đến các chu kỳ đặc biệt của tế bào, nhằm vào các quá trình tổng hợp hay quá trình phân bào nguyên phân. Các thuốc chống ung thư khác, chẳng hạn như nhóm ankyl hoá, không phải là pha đặc hiệu, chỉ biểu hiệu độc tính tại một vài điểm trong chu kỳ tế bào. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nhiều loại thuốc chống ung thư lại nên ung thư và gây đột biến.
Nhiều loại thuốc có tính độc gây kích thích cao độ và gây nên những hậu quả huỷ hoại cục bộ sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hay mắt, chúng có thể gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hay viêm da.
cần đặc biệt cẩn thận trong việc sử dụng, vận chuyển chất thải gây độc gen tế bào. Việc làm thoát thải những chất thải như vậy vào môi trường có thể gây nên những hậu quả sinh thái không thể lường trước được, nhiều khi tác hại tới môi trường và sinh thái rất nghiêm trọng.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Các loại hoá chất diệt côn trùng quá hạn lưu trữ trong các thùng bị rò rỉ hay túi rách thủng có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sức khoẻ của bất cứ ai tới gần và tiếp xúc chúng.
Trong những trận mưa lớn, các hoá chất diệt côn trùng bị rò rỉ có thể thấm sâu vô đất và tiếp theo gây ô nhiễm nước ngầm. Sự nhiễm độc có thể xảy ra do tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm hoá chất, do hít phải hơi độc hay do uống phải nước hay thức ăn đã bị nhiễm độc. Các mối nguy cơ khác có thể là khả năng dẫn đến các vụ hoả hoạn hay gây ô nhiễm do việc xử lý chất thải không đúng cách chẳng hạn như thiêu huỷ hay chôn lấp.
Các sản phẩm hoá chất được thải thẳng vào hệ thống cống thải có thể gây nên bất lợi tới hoạt động của hệ thống xử lý nước thải (nhất là hệ thống xử lý công nghệ phân huỷ sinh học) hay gây ảnh hưởng độc hại tới hệ sinh thái tự nhiên tiếp nhận nguồn nước này. Những vấn đề tương tự như vậy cũng có thể xảy ra do sản phẩm của quá trình bào chế dược phẩm bao gồm các kháng sinh và các loại thuốc khác, do các kim loại nặng như thuỷ ngân, phenol và các dẫn xuất, các hoá chất khử trùng và tẩy uế.
Những nguy cơ từ chất thải gây độc gen tế bào
Đối với các nhân viên y tế do nhu cầu công việc phải tiếp xúc và xử lý loại chất thải gây độc gen tế bào mà mức độ ảnh hưởng và chịu tác động từ các rủi ro tiềm tàng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như tính chất, liều lượng gây độc của chất độc và khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Quá trình tiếp xúc với các chất độc trong công tác y tế có thể xảy ra trong lúc chuẩn bị hay trong quá trình điều trị bằng các thuốc đặc biệt hay bằng phương pháp hoá trị liệu. Những cách tiếp xúc chính là hít phải hoá chất có tính nhiễm độc ở dạng bụi hay hơi mùi qua đường hô hấp, bị hấp thụ qua da do tiếp xúc trực tiếp, qua đường tiêu hoá do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc. Việc nhiễm độc qua đường tiêu hoá thường là do ảnh hưởng của những thói quen xấu, chẳng hạn như dùng miệng để hút ống pipet trong các công việc như khi định lượng dung dịch, xét nghiệm sinh hoá. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch thể và chất tiết nhất là các bệnh phẩm cần xét nghiệm của những bệnh nhân đang trong giai đoạn điều trị bằng phương pháp hoá trị liệu.
Độc tính đối với tế bào của nhiều loại thuốc chống ung thư là tác động đến các chu kỳ đặc biệt của tế bào, nhằm vào các quá trình tổng hợp hay quá trình phân bào nguyên phân. Các thuốc chống ung thư khác, chẳng hạn như nhóm ankyl hoá, không phải là pha đặc hiệu, chỉ biểu hiệu độc tính tại một vài điểm trong chu kỳ tế bào. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nhiều loại thuốc chống ung thư lại nên ung thư và gây đột biến.
Nhiều loại thuốc có tính độc gây kích thích cao độ và gây nên những hậu quả huỷ hoại cục bộ sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hay mắt, chúng có thể gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hay viêm da.
cần đặc biệt cẩn thận trong việc sử dụng, vận chuyển chất thải gây độc gen tế bào. Việc làm thoát thải những chất thải như vậy vào môi trường có thể gây nên những hậu quả sinh thái không thể lường trước được, nhiều khi tác hại tới môi trường và sinh thái rất nghiêm trọng.
Những nguy cơ từ các loại chất thải phóng xạ
Loại bệnh và hội chứng gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi các chất thải, đối tượng và phạm vi tiếp xúc. Chất thải phóng xạ cũng như chất thải dược phẩm là một loại độc hại tới tế bào, gen, và cũng có thể ảnh hưởng tới các yếu tố di truyền. Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như: các nguồn phóng xạ của các phương tiện chuẩn đoán như máy Xquang, máy chụp cắt lớp, v.v. có thể gây ra một loạt các tổn thương chẳng hạn như phá huỷ các mô, nhiều khi gây bỏng cấp tính (với một số trường hợp mức độ bị ảnh hưởng trầm trọng tới mức phải dẫn tới việc xử lý loại bỏ hay cắt cụt các phần cơ thể bị ảnh hưởng.)
Các nguy cơ từ các loại chất thải có chứa các đồng vị hoạt tính thấp có thể phát sinh do việc nhiễm xạ trên bề mặt của các vật chứa, do cách hay khoảng thời gian lưu giữ loại chất thải này. Các nhân viên y tế hay những người làm nhiệm vụ thu gom và vận chuyển rác khi phải tiếp xúc với chất thải có chứa các loại đồng vị phóng xạ này là những người thuộc nhóm nguy cơ cao.
Tính nhạy cảm xã hội
Bên cạnh việc lo ngại đối với những nguy cơ lây bệnh của chất thải rắn y tế tác động lên sức khoẻ, cộng đồng thường cũng rất nhạy cảm với những ấn tượng tâm lý, ghê sợ đặc biệt là khi nhìn thấy loại chất thải thuộc về giải phẫu, các bộ phận cơ thể bị cắt bỏ trong phẫu thuật như: chi thể, dạ dày, các khối u, rau thai, bào thai nhi, máu, tổ chức hoại tử, dập nát.
2.2.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế tới sức khoẻ cộng đồng
a/ Ảnh hưởng của các loại chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Đối với những bệnh có khả năng truyền nhiễm, nguy hiểm do virus gây ra như HIV/AIDS, viêm gan B hay C, những nhân viên y tế, đặc biệt các y tá, hộ lý là những người có nguy cơ nhiễm cao nhất qua những vết thương do các vật sắc nhọn bị nhiễm máu bệnh nhân gây nên. Các nhân viên hành chính của bệnh viện là những người vận hành hệ thống quản lý chất thải trong phạm vi bệnh viện cũng như ngoài bệnh viện ở các trạm xử lý chất thải của địa phương, khu vực cũng có nguy cơ đáng kể, chẳng hạn như những nhân viên quét dọn vệ sinh, những người bới rác tại các bãi đổ rác mặc dù chưa có nhiều bằng chứng ghi nhận những nguy cơ này. Nguy cơ của loại bệnh truyền nhiễm này trong số các bệnh nhân và cộng đồng không phải tiếp xúc với chất thải y tế thấp hơn nhiều. Trong một số trường hợp, một vài bệnh truyền nhiễm lây truyền và lan rộng ra cộng đồng xung quanh nhiều khi trở thành dịch, một bằng chứng được ghi nhận là vụ dịch tả hoành hành ở Trung Mỹ năm 1996-1997 mà nghi can chính là nước thải từ một bệnh viện truyền nhiễm ở Peru không được xử lý và thải ra lưu vực, kết quả là gây nhiễm bệnh và gây bùng phát thành dịch bệnh.
Các trường hợp tai nạn riêng lẻ hay nhiễm trùng thứ phát do chất thải y tế gây ra đều được chứng minh bởi các tài liệu đáng tin cậy. Tuy vậy nhìn chung vẫn khó đánh giá trực tiếp ảnh hưởng của chất thải rắn y tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Vẫn còn những nghi ngờ đối với những trường hợp nhiễm khuẩn với số lượng lớn mà tác nhân gây bệnh do tiếp xúc với chất thải y tế.
Tỷ lệ tổn thương hàng năm do các vật sắc nhọn trong chất thải y tế và dịch vụ vệ sinh mô...
Download Đề tài Đánh giá hiện trạng và biện pháp thu gom, xử lý chất thải rắn tại một số bệnh viện trên địa bàn tỉnh Gia Lai miễn phí
Đối với các nhân viên y tế do nhu cầu công việc phải tiếp xúc và xử lý loại chất thải gây độc gen tế bào mà mức độ ảnh hưởng và chịu tác động từ các rủi ro tiềm tàng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như tính chất, liều lượng gây độc của chất độc và khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Quá trình tiếp xúc với các chất độc trong công tác y tế có thể xảy ra trong lúc chuẩn bị hay trong quá trình điều trị bằng các thuốc đặc biệt hay bằng phương pháp hoá trị liệu. Những cách tiếp xúc chính là hít phải hoá chất có tính nhiễm độc ở dạng bụi hay hơi mùi qua đường hô hấp, bị hấp thụ qua da do tiếp xúc trực tiếp, qua đường tiêu hoá do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc. Việc nhiễm độc qua đường tiêu hoá thường là do ảnh hưởng của những thói quen xấu, chẳng hạn như dùng miệng để hút ống pipet trong các công việc như khi định lượng dung dịch, xét nghiệm sinh hoá. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch thể và chất tiết nhất là các bệnh phẩm cần xét nghiệm của những bệnh nhân đang trong giai đoạn điều trị bằng phương pháp hoá trị liệu.
Độc tính đối với tế bào của nhiều loại thuốc chống ung thư là tác động đến các chu kỳ đặc biệt của tế bào, nhằm vào các quá trình tổng hợp hay quá trình phân bào nguyên phân. Các thuốc chống ung thư khác, chẳng hạn như nhóm ankyl hoá, không phải là pha đặc hiệu, chỉ biểu hiệu độc tính tại một vài điểm trong chu kỳ tế bào. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nhiều loại thuốc chống ung thư lại nên ung thư và gây đột biến.
Nhiều loại thuốc có tính độc gây kích thích cao độ và gây nên những hậu quả huỷ hoại cục bộ sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hay mắt, chúng có thể gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hay viêm da.
cần đặc biệt cẩn thận trong việc sử dụng, vận chuyển chất thải gây độc gen tế bào. Việc làm thoát thải những chất thải như vậy vào môi trường có thể gây nên những hậu quả sinh thái không thể lường trước được, nhiều khi tác hại tới môi trường và sinh thái rất nghiêm trọng.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
oá chất khử trùng là những thành phần đặc biệt quan trọng của nhóm chất thải y tế dạng hoá chất. Chúng thường được sử dụng với số lượng lớn và thường là những chất ăn mòn. Cũng cần lưu ý rằng đây cũng là loại hóa chất gây phản ứng và cũng có thể tạo nên các dạng hỗn hợp thứ cấp có tính độc cao.Các loại hoá chất diệt côn trùng quá hạn lưu trữ trong các thùng bị rò rỉ hay túi rách thủng có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sức khoẻ của bất cứ ai tới gần và tiếp xúc chúng.
Trong những trận mưa lớn, các hoá chất diệt côn trùng bị rò rỉ có thể thấm sâu vô đất và tiếp theo gây ô nhiễm nước ngầm. Sự nhiễm độc có thể xảy ra do tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm hoá chất, do hít phải hơi độc hay do uống phải nước hay thức ăn đã bị nhiễm độc. Các mối nguy cơ khác có thể là khả năng dẫn đến các vụ hoả hoạn hay gây ô nhiễm do việc xử lý chất thải không đúng cách chẳng hạn như thiêu huỷ hay chôn lấp.
Các sản phẩm hoá chất được thải thẳng vào hệ thống cống thải có thể gây nên bất lợi tới hoạt động của hệ thống xử lý nước thải (nhất là hệ thống xử lý công nghệ phân huỷ sinh học) hay gây ảnh hưởng độc hại tới hệ sinh thái tự nhiên tiếp nhận nguồn nước này. Những vấn đề tương tự như vậy cũng có thể xảy ra do sản phẩm của quá trình bào chế dược phẩm bao gồm các kháng sinh và các loại thuốc khác, do các kim loại nặng như thuỷ ngân, phenol và các dẫn xuất, các hoá chất khử trùng và tẩy uế.
Những nguy cơ từ chất thải gây độc gen tế bào
Đối với các nhân viên y tế do nhu cầu công việc phải tiếp xúc và xử lý loại chất thải gây độc gen tế bào mà mức độ ảnh hưởng và chịu tác động từ các rủi ro tiềm tàng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như tính chất, liều lượng gây độc của chất độc và khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Quá trình tiếp xúc với các chất độc trong công tác y tế có thể xảy ra trong lúc chuẩn bị hay trong quá trình điều trị bằng các thuốc đặc biệt hay bằng phương pháp hoá trị liệu. Những cách tiếp xúc chính là hít phải hoá chất có tính nhiễm độc ở dạng bụi hay hơi mùi qua đường hô hấp, bị hấp thụ qua da do tiếp xúc trực tiếp, qua đường tiêu hoá do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc. Việc nhiễm độc qua đường tiêu hoá thường là do ảnh hưởng của những thói quen xấu, chẳng hạn như dùng miệng để hút ống pipet trong các công việc như khi định lượng dung dịch, xét nghiệm sinh hoá. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch thể và chất tiết nhất là các bệnh phẩm cần xét nghiệm của những bệnh nhân đang trong giai đoạn điều trị bằng phương pháp hoá trị liệu.
Độc tính đối với tế bào của nhiều loại thuốc chống ung thư là tác động đến các chu kỳ đặc biệt của tế bào, nhằm vào các quá trình tổng hợp hay quá trình phân bào nguyên phân. Các thuốc chống ung thư khác, chẳng hạn như nhóm ankyl hoá, không phải là pha đặc hiệu, chỉ biểu hiệu độc tính tại một vài điểm trong chu kỳ tế bào. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nhiều loại thuốc chống ung thư lại nên ung thư và gây đột biến.
Nhiều loại thuốc có tính độc gây kích thích cao độ và gây nên những hậu quả huỷ hoại cục bộ sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hay mắt, chúng có thể gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hay viêm da.
cần đặc biệt cẩn thận trong việc sử dụng, vận chuyển chất thải gây độc gen tế bào. Việc làm thoát thải những chất thải như vậy vào môi trường có thể gây nên những hậu quả sinh thái không thể lường trước được, nhiều khi tác hại tới môi trường và sinh thái rất nghiêm trọng.
Những nguy cơ từ các loại chất thải phóng xạ
Loại bệnh và hội chứng gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi các chất thải, đối tượng và phạm vi tiếp xúc. Chất thải phóng xạ cũng như chất thải dược phẩm là một loại độc hại tới tế bào, gen, và cũng có thể ảnh hưởng tới các yếu tố di truyền. Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như: các nguồn phóng xạ của các phương tiện chuẩn đoán như máy Xquang, máy chụp cắt lớp, v.v. có thể gây ra một loạt các tổn thương chẳng hạn như phá huỷ các mô, nhiều khi gây bỏng cấp tính (với một số trường hợp mức độ bị ảnh hưởng trầm trọng tới mức phải dẫn tới việc xử lý loại bỏ hay cắt cụt các phần cơ thể bị ảnh hưởng.)
Các nguy cơ từ các loại chất thải có chứa các đồng vị hoạt tính thấp có thể phát sinh do việc nhiễm xạ trên bề mặt của các vật chứa, do cách hay khoảng thời gian lưu giữ loại chất thải này. Các nhân viên y tế hay những người làm nhiệm vụ thu gom và vận chuyển rác khi phải tiếp xúc với chất thải có chứa các loại đồng vị phóng xạ này là những người thuộc nhóm nguy cơ cao.
Tính nhạy cảm xã hội
Bên cạnh việc lo ngại đối với những nguy cơ lây bệnh của chất thải rắn y tế tác động lên sức khoẻ, cộng đồng thường cũng rất nhạy cảm với những ấn tượng tâm lý, ghê sợ đặc biệt là khi nhìn thấy loại chất thải thuộc về giải phẫu, các bộ phận cơ thể bị cắt bỏ trong phẫu thuật như: chi thể, dạ dày, các khối u, rau thai, bào thai nhi, máu, tổ chức hoại tử, dập nát.
2.2.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế tới sức khoẻ cộng đồng
a/ Ảnh hưởng của các loại chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Đối với những bệnh có khả năng truyền nhiễm, nguy hiểm do virus gây ra như HIV/AIDS, viêm gan B hay C, những nhân viên y tế, đặc biệt các y tá, hộ lý là những người có nguy cơ nhiễm cao nhất qua những vết thương do các vật sắc nhọn bị nhiễm máu bệnh nhân gây nên. Các nhân viên hành chính của bệnh viện là những người vận hành hệ thống quản lý chất thải trong phạm vi bệnh viện cũng như ngoài bệnh viện ở các trạm xử lý chất thải của địa phương, khu vực cũng có nguy cơ đáng kể, chẳng hạn như những nhân viên quét dọn vệ sinh, những người bới rác tại các bãi đổ rác mặc dù chưa có nhiều bằng chứng ghi nhận những nguy cơ này. Nguy cơ của loại bệnh truyền nhiễm này trong số các bệnh nhân và cộng đồng không phải tiếp xúc với chất thải y tế thấp hơn nhiều. Trong một số trường hợp, một vài bệnh truyền nhiễm lây truyền và lan rộng ra cộng đồng xung quanh nhiều khi trở thành dịch, một bằng chứng được ghi nhận là vụ dịch tả hoành hành ở Trung Mỹ năm 1996-1997 mà nghi can chính là nước thải từ một bệnh viện truyền nhiễm ở Peru không được xử lý và thải ra lưu vực, kết quả là gây nhiễm bệnh và gây bùng phát thành dịch bệnh.
Các trường hợp tai nạn riêng lẻ hay nhiễm trùng thứ phát do chất thải y tế gây ra đều được chứng minh bởi các tài liệu đáng tin cậy. Tuy vậy nhìn chung vẫn khó đánh giá trực tiếp ảnh hưởng của chất thải rắn y tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Vẫn còn những nghi ngờ đối với những trường hợp nhiễm khuẩn với số lượng lớn mà tác nhân gây bệnh do tiếp xúc với chất thải y tế.
Tỷ lệ tổn thương hàng năm do các vật sắc nhọn trong chất thải y tế và dịch vụ vệ sinh mô...