Download Đề tài Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam những khó khăn thách thức
Mục lục
1. Giới thiệu
1.1 Mở đầu 2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.3. Nội dung nghiên cứu 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu 3
2. Cơ sơ lý thuyết 4
2.1. Lịch sử quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến ĐTM của Việt Nam 4
2.2. Một số văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề Đánh giá tác động môi trường có hiệu lực hiện hành. 4
2.3. Các lực lượng thực thi đánh giá tác động môi trường 5
3. Chính sách được đánh giá Tác động môi trường 6
3.1.Mục tiêu chính sách 6
3.2 Một số nhận định về kết quả thực hiện 6
4. Những đánh giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách 7
4.1. Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức 7
4.2. Sự quan tâm và nguồn kinh phí thực hiện. 8
4.3. Công tác giám sát sau đánh giá tác động môi trường và các văn bản luật liên quan. 9
4.4. Vai trò của Cộng đồng người dân trong các đánh giá ĐTM. 9
5. Kết luận – một số đề xuất 10
5.1. Kết luận 10
5.2. Một số đề xuất 10
Tài liệu tham khảo 11
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Mục lục
Giới thiệu
1.1 Mở đầu
Việt nam có tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh. Hiện nay với nhữn thành tựa mà chúng đất nước chúng ta đã đạt được trên các mặt kinh tế, xã hội. Có lẽ điều này rất ít người không biết đến. Song mặt trái của quá trình phát triển sẽ không dễ dàng nhận ra bởi những hậu quả của nó có thể không tạo ra hiệu ứng tức thời với tới môi trường sống của chúng ta. Cùng với việc xây dựng các chương trình, dự án nhằm phát triển kinh tế xã hội, tạo ra những tác động thúc đẫy phát triển là các tác động làm thay đổi môi trường sinh thái, biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên, những vấn đề này có thể không được nhận ra hay nhận ra nhưng chúng ta chấp nhận đánh đổi để phát triển. Vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển chính là sự bền vững của các chương trình, dự án đó. Chính những vấn đề này đã đưa việc đánh giá tác động môi trường trở nên hết sức quan trọng.
Trên Thế giới vấn đề này đã thành một phần quan trọng trong việc xây dựng và hình thành các chương trình – dự án, đặc biệt là ở các nước phát triển. Sau một thời gian dài phát triển và đạt được những thành quả quan trọng thì họ đã nhận ra được cái giá phải trả cho sự phát triển không bền vững. Nên đánh giá tác động môi trường là một phần không thể thiếu trong việc thực hiện các dự án.
Ở Việt nam chúng ta một nước có thể nói là có một thời gian dài chìm trong chiến tranh, khi hòa bình lập lại nhu cầu xây dựng đất nước phát triển nhanh mạnh là một nhu cầu cấp thiết và mang tính sống còn của nền độc lập dân tộc. Do đó có một thời gian dài chúng ta phát triển nhưng không quan tâm đến tác lại của quá trình phát triển; ví dụ như nhưng năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ trước chúng ta đã thành lập hàng loạt các Lâm Trường khai thác gỗ, việc khai thác gỗ được giao chỉ tiêu, những đơn vị nào phá được nhiều rừng thì nhận được sự khen thưởng (huân huy chương các loại). Đây không phải là chúng ta phán xét lại lịch sử song, chính vấn đề này là một việc làm không có sự tính toán đánh giá đến các tác động tại hại khi những cánh rừng bị chặt hạ….; một ví dụ khác nữa chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra chính là các chương trình khai thác tài nguyên thô xuất khẩu cũng là một vấn đề nỗi cộm cần có sự nhìn nhận và điều chỉnh lại. Vấn đề Đánh giá tác động môi trường đã bắt đầu quan tâm, từ những năm đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Song chưa thực sự nhận được sự quan tâm đúng mức, thậm chí bị coi nhẹ bỏ qua. Bắt đầu từ năm 1993 Luật bảo vệ môi trường Việt Nam đã được ra đời và trong văn bản luật đã có nhưng yêu cầu về việc đánh giá tác động môi trường các dự án. Nhưng để thực sự vấn đề này thực sự nhận được sự quan tâm từ khi luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã có những ý tưởng thực sự rõ ràng và hướng dẫn yêu cầu cụ thể.
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là công cụ pháp lý và kỹ thuật quan trọng để xem xét, dự báo tác động môi trường, xã hội của các dự án, hoạt động phát triển; cung cấp luận cứ khoa học cho chính quyền, cơ quan quản lý chuyên ngành và doanh nghiệp cân nhắc trong quá trình quyết định đầu tư và phê duyệt dự án. Các yêu cầu về ĐTM đã được luật hóa và quy định bởi Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam từ năm 1993 và cụ thể hơn trong luật môi trường năm 2005. Với 16 năm thực hiện công tác ĐTM đã giúp Chính phủ Việt Nam từng bước cụ thể hóa và cải thiện hệ thống quy định ĐTM, tạo lập và phát triển năng lực đội ngũ thực hiện ĐTM; nhờ ĐTM nhiều dự án có nguy cơ, rủi ro cao đối với môi trường và xã hội đã buộc phải chấm dứt hay điều chỉnh lại. Tuy nhiên, hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập và yếu kém về cả chất lượng cũng như việc thực thi theo quy định pháp luật.
Nhìn chung, ĐTM vẫn bị hành xử như một thủ tục nhằm hợp thức hóa quá trình thẩm định và phê duyệt các dự án, hoạt động đầu tư. Bản thân quy định luật pháp hiện hành về ĐTM cũng thực sự chặt chẽ. Nhiều hậu quả nghiêm trọng về môi trường và xã hội đã xảy ra do các yêu cầu về ĐTM bị làm ngơ hay không được thực hiện nghiêm chỉnh. Vấn đề này đang trở thành một chủ đề nóng, chủ đề tranh luận của các nhà khoa học, nhà quản lý và đông đảo quần chúng nhân dân.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong khuôn khổ một tiểu luận nghiên cứa về “Luật và chính sách môi trường” với mục tiêu tìm hiểu hiệu quả và các một số tồn tại trong việc thực hiện Đánh giá tác động ĐTM, với những vấn đề được phân tích từ đó có một số đề xuất mang tính tham khảo nhằm khắc phục nhược điểm.
1.3. Nội dung nghiên cứu
Từ các chính sách về luật chính sách môi trường liên quan đến vấn đề đánh giá tác động môi trường.
Các vấn đề đang được quan tâm của dư luận ở thời điểm hiện tại, từ việc thực hiện các đánh giá môi trường, đến các vần đề phát sinh sau khi thực hiện các dự án.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp sưu tầm và thu thập số liệu
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp phân tích điểm yếu điểm mạnh (SWOT).
2. Cơ sơ lý thuyết
2.1. Lịch sử quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến ĐTM của Việt Nam
Ở Việt Nam lần đầu tiên quy trình ĐTM được đưa ra trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993, và đến nay đã có những điều chỉnh đáng kể.
Các chế tài về ĐTM lần đầu tiên được quy định tại Điều 17 và 18 của Luật BVMT ban hành ngày 27/12/1993, và tiếp đó là Nghị định 175/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993. Các quy định này yêu cầu tất cả các dự án trong nước và đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đều là đối tượng phải thực hiện ĐTM. Các dự án đã đi vào hoạt động cũng cần lập báo cáo đánh giá tác động dưới dạng "kiểm toán môi trường". Luật BVMT sửa đổi ban hành ngày 29/11/2005 đã dành riêng một chương quy định về công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường. Nếu như bước tiến hành báo cáo ĐTM sơ bộ được coi là bắt buộc đối với các dự án trước khi có Luật BVMT 2005, thì sau khi luật này có hiệu lực, bước này đã bị xoá bỏ. Giai đoạn từ năm 1994 đến trước khi Luật BVMT 2005 được ban hành là giai đoạn "vừa làm - vừa học - vừa rút kinh nghiệm" của Việt Nam (1). Đến năm 2008, một bảng danh mục các đối tượng gồm 162 loại dự án khác nhau phải lập báo cáo ĐTM đã được quy định tại Nghị định 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/2/2008. Các dự án thuộc danh mục này sẽ phải thực hiện báo cáo ĐTM chi tiết; nếu không chỉ cần thực hiện cam kết BVMT. Đối tượng của quy định "ĐTM bổ sung" là các dự án mở rộng hay thay đổi công nghệ của các cơ sở đang sản xuất. Khái niệm này đã thay thế cho dạng báo cáo ĐTM của các cơ sở đang hoạt động trước đây.
2.2. Một số văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề Đánh giá tác ...
Download Đề tài Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam những khó khăn thách thức miễn phí
Mục lục
1. Giới thiệu
1.1 Mở đầu 2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.3. Nội dung nghiên cứu 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu 3
2. Cơ sơ lý thuyết 4
2.1. Lịch sử quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến ĐTM của Việt Nam 4
2.2. Một số văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề Đánh giá tác động môi trường có hiệu lực hiện hành. 4
2.3. Các lực lượng thực thi đánh giá tác động môi trường 5
3. Chính sách được đánh giá Tác động môi trường 6
3.1.Mục tiêu chính sách 6
3.2 Một số nhận định về kết quả thực hiện 6
4. Những đánh giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách 7
4.1. Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức 7
4.2. Sự quan tâm và nguồn kinh phí thực hiện. 8
4.3. Công tác giám sát sau đánh giá tác động môi trường và các văn bản luật liên quan. 9
4.4. Vai trò của Cộng đồng người dân trong các đánh giá ĐTM. 9
5. Kết luận – một số đề xuất 10
5.1. Kết luận 10
5.2. Một số đề xuất 10
Tài liệu tham khảo 11
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
“Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam những khó khăn thách thức”Mục lục
Giới thiệu
1.1 Mở đầu
Việt nam có tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh. Hiện nay với nhữn thành tựa mà chúng đất nước chúng ta đã đạt được trên các mặt kinh tế, xã hội. Có lẽ điều này rất ít người không biết đến. Song mặt trái của quá trình phát triển sẽ không dễ dàng nhận ra bởi những hậu quả của nó có thể không tạo ra hiệu ứng tức thời với tới môi trường sống của chúng ta. Cùng với việc xây dựng các chương trình, dự án nhằm phát triển kinh tế xã hội, tạo ra những tác động thúc đẫy phát triển là các tác động làm thay đổi môi trường sinh thái, biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên, những vấn đề này có thể không được nhận ra hay nhận ra nhưng chúng ta chấp nhận đánh đổi để phát triển. Vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển chính là sự bền vững của các chương trình, dự án đó. Chính những vấn đề này đã đưa việc đánh giá tác động môi trường trở nên hết sức quan trọng.
Trên Thế giới vấn đề này đã thành một phần quan trọng trong việc xây dựng và hình thành các chương trình – dự án, đặc biệt là ở các nước phát triển. Sau một thời gian dài phát triển và đạt được những thành quả quan trọng thì họ đã nhận ra được cái giá phải trả cho sự phát triển không bền vững. Nên đánh giá tác động môi trường là một phần không thể thiếu trong việc thực hiện các dự án.
Ở Việt nam chúng ta một nước có thể nói là có một thời gian dài chìm trong chiến tranh, khi hòa bình lập lại nhu cầu xây dựng đất nước phát triển nhanh mạnh là một nhu cầu cấp thiết và mang tính sống còn của nền độc lập dân tộc. Do đó có một thời gian dài chúng ta phát triển nhưng không quan tâm đến tác lại của quá trình phát triển; ví dụ như nhưng năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ trước chúng ta đã thành lập hàng loạt các Lâm Trường khai thác gỗ, việc khai thác gỗ được giao chỉ tiêu, những đơn vị nào phá được nhiều rừng thì nhận được sự khen thưởng (huân huy chương các loại). Đây không phải là chúng ta phán xét lại lịch sử song, chính vấn đề này là một việc làm không có sự tính toán đánh giá đến các tác động tại hại khi những cánh rừng bị chặt hạ….; một ví dụ khác nữa chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra chính là các chương trình khai thác tài nguyên thô xuất khẩu cũng là một vấn đề nỗi cộm cần có sự nhìn nhận và điều chỉnh lại. Vấn đề Đánh giá tác động môi trường đã bắt đầu quan tâm, từ những năm đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Song chưa thực sự nhận được sự quan tâm đúng mức, thậm chí bị coi nhẹ bỏ qua. Bắt đầu từ năm 1993 Luật bảo vệ môi trường Việt Nam đã được ra đời và trong văn bản luật đã có nhưng yêu cầu về việc đánh giá tác động môi trường các dự án. Nhưng để thực sự vấn đề này thực sự nhận được sự quan tâm từ khi luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã có những ý tưởng thực sự rõ ràng và hướng dẫn yêu cầu cụ thể.
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là công cụ pháp lý và kỹ thuật quan trọng để xem xét, dự báo tác động môi trường, xã hội của các dự án, hoạt động phát triển; cung cấp luận cứ khoa học cho chính quyền, cơ quan quản lý chuyên ngành và doanh nghiệp cân nhắc trong quá trình quyết định đầu tư và phê duyệt dự án. Các yêu cầu về ĐTM đã được luật hóa và quy định bởi Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam từ năm 1993 và cụ thể hơn trong luật môi trường năm 2005. Với 16 năm thực hiện công tác ĐTM đã giúp Chính phủ Việt Nam từng bước cụ thể hóa và cải thiện hệ thống quy định ĐTM, tạo lập và phát triển năng lực đội ngũ thực hiện ĐTM; nhờ ĐTM nhiều dự án có nguy cơ, rủi ro cao đối với môi trường và xã hội đã buộc phải chấm dứt hay điều chỉnh lại. Tuy nhiên, hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập và yếu kém về cả chất lượng cũng như việc thực thi theo quy định pháp luật.
Nhìn chung, ĐTM vẫn bị hành xử như một thủ tục nhằm hợp thức hóa quá trình thẩm định và phê duyệt các dự án, hoạt động đầu tư. Bản thân quy định luật pháp hiện hành về ĐTM cũng thực sự chặt chẽ. Nhiều hậu quả nghiêm trọng về môi trường và xã hội đã xảy ra do các yêu cầu về ĐTM bị làm ngơ hay không được thực hiện nghiêm chỉnh. Vấn đề này đang trở thành một chủ đề nóng, chủ đề tranh luận của các nhà khoa học, nhà quản lý và đông đảo quần chúng nhân dân.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong khuôn khổ một tiểu luận nghiên cứa về “Luật và chính sách môi trường” với mục tiêu tìm hiểu hiệu quả và các một số tồn tại trong việc thực hiện Đánh giá tác động ĐTM, với những vấn đề được phân tích từ đó có một số đề xuất mang tính tham khảo nhằm khắc phục nhược điểm.
1.3. Nội dung nghiên cứu
Từ các chính sách về luật chính sách môi trường liên quan đến vấn đề đánh giá tác động môi trường.
Các vấn đề đang được quan tâm của dư luận ở thời điểm hiện tại, từ việc thực hiện các đánh giá môi trường, đến các vần đề phát sinh sau khi thực hiện các dự án.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp sưu tầm và thu thập số liệu
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp phân tích điểm yếu điểm mạnh (SWOT).
2. Cơ sơ lý thuyết
2.1. Lịch sử quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến ĐTM của Việt Nam
Ở Việt Nam lần đầu tiên quy trình ĐTM được đưa ra trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993, và đến nay đã có những điều chỉnh đáng kể.
Các chế tài về ĐTM lần đầu tiên được quy định tại Điều 17 và 18 của Luật BVMT ban hành ngày 27/12/1993, và tiếp đó là Nghị định 175/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993. Các quy định này yêu cầu tất cả các dự án trong nước và đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đều là đối tượng phải thực hiện ĐTM. Các dự án đã đi vào hoạt động cũng cần lập báo cáo đánh giá tác động dưới dạng "kiểm toán môi trường". Luật BVMT sửa đổi ban hành ngày 29/11/2005 đã dành riêng một chương quy định về công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường. Nếu như bước tiến hành báo cáo ĐTM sơ bộ được coi là bắt buộc đối với các dự án trước khi có Luật BVMT 2005, thì sau khi luật này có hiệu lực, bước này đã bị xoá bỏ. Giai đoạn từ năm 1994 đến trước khi Luật BVMT 2005 được ban hành là giai đoạn "vừa làm - vừa học - vừa rút kinh nghiệm" của Việt Nam (1). Đến năm 2008, một bảng danh mục các đối tượng gồm 162 loại dự án khác nhau phải lập báo cáo ĐTM đã được quy định tại Nghị định 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/2/2008. Các dự án thuộc danh mục này sẽ phải thực hiện báo cáo ĐTM chi tiết; nếu không chỉ cần thực hiện cam kết BVMT. Đối tượng của quy định "ĐTM bổ sung" là các dự án mở rộng hay thay đổi công nghệ của các cơ sở đang sản xuất. Khái niệm này đã thay thế cho dạng báo cáo ĐTM của các cơ sở đang hoạt động trước đây.
2.2. Một số văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề Đánh giá tác ...