emi_younggirl2506
New Member
Download Đề tài Đánh giá thị trường chứng khoán Việt Nam 2001-2010
Từ năm 1983 đến nay, do yêu cầu bức bách của chi tiêu ngân sách, Chính phủ đã phát hành các loại công trái có thời hạn dài (5 năm, 10 năm). Đặc điểm của các loại trái phiếu phát hành trong thời gian này là khối lượng phát hành khá nhỏ, lãi suất thấp, mang tính chất bắt buộc, có ghi tên và không cho phép mua bán nên đối với người dân, việc mua trái phiếu phát hành trong giai đoạn hoàn toàn đơn giản là một nghĩa vụ. Đến năm 1991, dưới ánh sáng của tư duy mới trong nền kinh tế thị trường, tín phiếu kho bạc Nhà nước với nhiều kỳ hạn (3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm) lãi suất được điều chỉnh theo thị trường đã được phát hành, chấm dứt thời kỳ phát hành để bù đắp chi tiêu ngân sách. Khác với loại công trái đã được phát hành trong thời kỳ thứ nhất, trái phiếu ngắn hạn phát hành trong giai đoạn này là loại bắt buộc, cưỡng ép. Tuy nhiên cũng giống như loại công trái đã phát hành trong giai đoạn trước, công trái phát hành trong giai đoạn này là loại công trái có ghi danh. Vì vậy, các loại chứng khoán này vẫn chưa thể lưu thông được. Số lượng và chất lượng cung chứng khoán trên thị trường được thể hiện rõ nét từ tháng 7/1994. Với Nghị định 72-CP ngày 26/7/1994 về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ và Nghị định 120-CP ngày 17/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu doanh nghiệp Nhà nước, dòng cung chứng khoán trên thị trường vốn nói chung và dòng cung của trái phiếu chính phủ nói riêng đã thực sự khởi sắc. Thực hiện các Nghị định này, thị trường trái phiếu chính phủ đã suất hiện ba dạng trái phiếu: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình. Tín phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn dưới 1 năm, được phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách trong năm tài chính. Trái phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn 1 năm trở lên, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển trong kế hoạch Ngân sách Nhà nước đã được duyệt. Khác với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn xây dựng các công trình do chính phủ duyệt. Loại trái phiếu này có thời hạn và lãi
suất tương tự như trái phiếu kho bạc nhà nước. Trái phiếu công trình bao gồm 2 loại: trái phiếu công trình huy động vốn cho các công trình trung ương do Bộ Tài chính đảm bảo thanh toán và trái phiếu công trình huy động vốn cho công trình địa phương do Uỷ Ban Nhân dân tỉnh, thành phố đảm bảo thanh toán. Từ tháng 7 năm 2000, bằng Nghị định 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành trái phiếu chính phủ, hai kênh phân phối mới cho trái phiếu chính phủ được chính phủ thiết lập là phát hành theo cách bảo lãnh phát hành và đấu thầu qua STC.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Ba, do vẫn duy trì cách bán lẻ với lãi suất cao hơn lãi suất đấu thầu đối với trái phiếu chính phủ có cùng kỳ hạn, trái phiếu chính phủ bán lẻ được nhà đầu tư ưa chuộng hơn trái phiếu mua lại qua các đợt đấu thâù trên thị trường.
Bốn, một trong các điều kiện để trái phiếu có thể mua bán được là phải có sự thay đổi về giá trịnh trái phiếu trong từng thời kỳ nhất định dưới tác động của sự thay đổi lãi suất thị trường. Thế nhưng, một mặt, do chưa có lãi suất chuẩn trên thị trường và lãi suất thị trường liên ngân hàng do các ngân hàng công bố thường chậm thay đổi rất chậm. Mặt khác, do kỹ thuật tính toán tương đối phức tạp, không phải nhà đầu tư nào cũng có thể tự xác định giá trái phiếu để làm cơ sở cho các quyết định mua bán khi lãi suất thị trường. Vì vậy, không có gì khó hiêu là vì sao trái phiếu chính phủ lại có ít giao dịch.
Năm, trong bối cảnh thị trường địa ốc đang lên cơn sốt, trong điều kiện thị trường cổ phiếu đang được xem là “cỗ máy đẻ ra tiền” với gia tốc cực lớn, việc các nhà đầu tư ngoảnh mặt với thị trường trái phiếu chính phủ âu cũng là điều dễ hiểu.
b) Thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu công ty được pháp luật Việt Nam thừa nhận theo Nghị định số 120/CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ. Trên nền tảng của Nghị định này, đã có một số doanh nghiệp thuộc ngànhđiện, xi măng, giao thông, xây dựng, xây dựng đề án trình Bộ Tài chính cho phép phát hành. Cho đến nay chúng ta đã triển khai một số đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nươca nhưng việc triển khai nay mới chỉ mang tính chất thí điểm. Hiện nay các trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước chưa được phân bán rộng rãi cho công chúng mà chủ yếu mới được phát hành trong phạm vi hẹp. Cũng như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp không đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong điều kiện các thủ tục, điều kiện vay vốn ngân hàng đã được nới lỏng và trong bối cảnh đất đai, cổ phiếu đang là “sự lựa chọn của tương lai” của giới đầ tư bởi khả năng sinh lời siêu ngạch của các tài sản này. Để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp phải đi tìm các công cụ tài chính mới. Và, lần đầu tiên trên thị trường tài chính nước ta, ý tưởng phát hành trái phiếu để huy động vốn được Công ty Giấy Hải Phòng (Hapaco), một Công ty đã niêm yết cổ phiếu, nêu trong đề án huyđộng 35 tỷ đồng cho dự án xây dựng nhà máy sản xuất giấy kraf. Trái phiếu chuyển đổi của Hapaco có mệnh giá 10.000 đồng, lãi suất 0,65%/tháng, thời hạn 5 năm và chuyển đổi thành cổ phiếu thường sau khi trái phiếu đáo hạn. Thế nhưng, phải đợi đến đề án huy động 25 tỷ đồng để cung cấp thiết bị, lắp đặt mạngcho các khu công nghiệp phần mềm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, khu công nghiệp Tân tạo....của Công ty cổ phần Công nghệ Thông tin (EIS), trái phiếu chuyển đổi EIS mới được chính thức tung ra trên thị trường vào tháng 5 năm 2001 qua dịch vụ tư vấn phát hành của Công ty chứng khoán Bảo Việt. Mặc dù vẫn có nhiều lần ý kiến khác nhau xung quanh về lổ hổng pháp lý, về độ an toàn, về kỹ thuật tính toán để xác định tỷ lệ chuyển đổi và giá chuyển đổi đủ điều kiện để sử dụng vốn qua kênh tài trợ trên thịtrường tài chính đã đánh dấu một bước phát triển đáng khích lệ của các dịch vụ tài chính trên thị trường trài chính nước ta.
c) Thị trường trái phiếu ngân hàng
Khác với ngành khác, có lẽ ngân hàng là một trong những ngành phát hành trái phiếu trên nhất. Kỳ phiếu (trái phiếu ngắn hạn dưới 1 năm) được một số ngân hàng thương mại phát hành chính thức từ năm 1992 và lượng phát hành nhanh chóng tăng lên vào những năm 1993, 1994. Từ năm 1994 tới nay, thực hiện Quyết định số 211-QĐ-NH1 ngày 22 tháng 9 năm 1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thể lệ phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại, nhiều ngân hàng thương mại lớn ở nước ta đã thường xuyên phát hành trái phiếu ngân hàng với khối lượng lớn. Nhờ vậy, đối với một bộ phận công chúng, mua trái phiếu ngân hàng đã trở thành sự lựa chọn quen thuộc trong thực đơn đầu tư. Đối với ngân hàng, thực hiện phương châm “đi vay để cho vay”, thời gian qua, trái phiếu ngân hàng là công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc đa dạng hoá thêm kênh huy động, giải toả kịp thời những mất cân đối giữa cung và cầu tín dụng trong nền kinh tế. Huy động vốn trên thị trường trái phiếu ngân hàng cũng có sự chuyển biến kể cả khi HSTC chính thúc đi vào hoạt động. Ngày 15 tháng 11 năm 2000, lần đầu tiên, trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, một trong bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, đã được niêm yết và giao dịch chính thức thông qua HSTC. Trái phiếu niêm yết đợt 1 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID1_100) có tổng trị giá là 83 tỷ, mệnh giá 100.000 đồng, lãi suất trả trước hàng năm, năm đầu 6,5%, các năm sau được thả nổi theo lãi suất của thị trường nhưng lãi suất tối thiểu được nhà phát hành cam kết trả theo lãi suất tiết kiệm 12 tháng cộng với 0,5%. Khi mới được tung ra trên thị trường, BID1_100 tỏ ra có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. trong 3 phiên giao dịch của trái phiếu, giá trị giao dịch của trái phiếu đã đạt trên 15% tổng giá trị giao dịch của toàn thị trường, giữ mức kỷ lục từ trước tới nay qua cách khớp lệnh. Trong điều kiện mất quân bình gay gắt giữa cung và cầu chứng khoán, quả thực, giao dịch của trái phiếu ngânhàng đã thổi một luồng sinh khi mới vào thị trường trái phiếu vẫn ddang trầm lắng bấy lâu nay.Đáng tiếc là trong thời gian gần đây, cũng như thị trường trái phiếu chính phủ, dưới áplực của sốt đất, sốt đô, sốt nhà, sốt giá (cổ phiếu), thị trường trái phiếu ngân hàng trở lên kém sôi động. Cũng vì thể mà trái phiếu niêm yết đợt 2 của ngân hàng (BID1_200) trở
lên kém hấp dẫn.
Tóm lại, từ thực trạng thị trường trái phiếu chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng đã phân tích ở trên, có thể thấy rằng , thị trường trái phiếu nước ta đang bộc lộ một số hạn chế và khiếm khuyết sau:
Một là, quy mô của thị trường vốn còn quá nhỏ bé so với tiềm năng cũng như đầu tư phát triển; chủng loại trái phiếu cũng chưa thật sự phong phú. Cho đến nay, trái phiếu của nước ta chỉ mới chiếm 2% GDP, một tỷ lệ còn quá khiêm tốn so với các nước trong khu vực (ở Malaysia tỷ lệ này là 50%). Các loại trái phiếu đựơc cung cấp trên thị trường chủ yếu là trái phiếu ngắn hạn, trái phiếu trung hạn của chính phủ và trái phiếu của ngân hàng. Trái phiếu công trình được phát hành vẫn còn ít. Rõ ràng trong bối cảnh này, việc hình thành và phát triển một thị trường thức cấp sản xuất trở nên vô cùng khó khăn vì nhu cầu chưngs khoán đủ lớn được phát hành thị trường sơ cấp nằm trong tay của đại bộ phận công chúng.
Hai là, ngoài các hạn chề về số lượng, các trái phiếu hiện có trên thị trường còn yếu kém về chất lượng....
Download Đề tài Đánh giá thị trường chứng khoán Việt Nam 2001-2010 miễn phí
Từ năm 1983 đến nay, do yêu cầu bức bách của chi tiêu ngân sách, Chính phủ đã phát hành các loại công trái có thời hạn dài (5 năm, 10 năm). Đặc điểm của các loại trái phiếu phát hành trong thời gian này là khối lượng phát hành khá nhỏ, lãi suất thấp, mang tính chất bắt buộc, có ghi tên và không cho phép mua bán nên đối với người dân, việc mua trái phiếu phát hành trong giai đoạn hoàn toàn đơn giản là một nghĩa vụ. Đến năm 1991, dưới ánh sáng của tư duy mới trong nền kinh tế thị trường, tín phiếu kho bạc Nhà nước với nhiều kỳ hạn (3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm) lãi suất được điều chỉnh theo thị trường đã được phát hành, chấm dứt thời kỳ phát hành để bù đắp chi tiêu ngân sách. Khác với loại công trái đã được phát hành trong thời kỳ thứ nhất, trái phiếu ngắn hạn phát hành trong giai đoạn này là loại bắt buộc, cưỡng ép. Tuy nhiên cũng giống như loại công trái đã phát hành trong giai đoạn trước, công trái phát hành trong giai đoạn này là loại công trái có ghi danh. Vì vậy, các loại chứng khoán này vẫn chưa thể lưu thông được. Số lượng và chất lượng cung chứng khoán trên thị trường được thể hiện rõ nét từ tháng 7/1994. Với Nghị định 72-CP ngày 26/7/1994 về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ và Nghị định 120-CP ngày 17/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu doanh nghiệp Nhà nước, dòng cung chứng khoán trên thị trường vốn nói chung và dòng cung của trái phiếu chính phủ nói riêng đã thực sự khởi sắc. Thực hiện các Nghị định này, thị trường trái phiếu chính phủ đã suất hiện ba dạng trái phiếu: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình. Tín phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn dưới 1 năm, được phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách trong năm tài chính. Trái phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn 1 năm trở lên, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển trong kế hoạch Ngân sách Nhà nước đã được duyệt. Khác với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn xây dựng các công trình do chính phủ duyệt. Loại trái phiếu này có thời hạn và lãi
suất tương tự như trái phiếu kho bạc nhà nước. Trái phiếu công trình bao gồm 2 loại: trái phiếu công trình huy động vốn cho các công trình trung ương do Bộ Tài chính đảm bảo thanh toán và trái phiếu công trình huy động vốn cho công trình địa phương do Uỷ Ban Nhân dân tỉnh, thành phố đảm bảo thanh toán. Từ tháng 7 năm 2000, bằng Nghị định 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành trái phiếu chính phủ, hai kênh phân phối mới cho trái phiếu chính phủ được chính phủ thiết lập là phát hành theo cách bảo lãnh phát hành và đấu thầu qua STC.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
iữ trái phiếu cho tới khi đến hạn bởi vì nghiệp vụ chiết khấu chưa được phổ biến và vẫn xa lạ với đại bộ phận công chúng.Ba, do vẫn duy trì cách bán lẻ với lãi suất cao hơn lãi suất đấu thầu đối với trái phiếu chính phủ có cùng kỳ hạn, trái phiếu chính phủ bán lẻ được nhà đầu tư ưa chuộng hơn trái phiếu mua lại qua các đợt đấu thâù trên thị trường.
Bốn, một trong các điều kiện để trái phiếu có thể mua bán được là phải có sự thay đổi về giá trịnh trái phiếu trong từng thời kỳ nhất định dưới tác động của sự thay đổi lãi suất thị trường. Thế nhưng, một mặt, do chưa có lãi suất chuẩn trên thị trường và lãi suất thị trường liên ngân hàng do các ngân hàng công bố thường chậm thay đổi rất chậm. Mặt khác, do kỹ thuật tính toán tương đối phức tạp, không phải nhà đầu tư nào cũng có thể tự xác định giá trái phiếu để làm cơ sở cho các quyết định mua bán khi lãi suất thị trường. Vì vậy, không có gì khó hiêu là vì sao trái phiếu chính phủ lại có ít giao dịch.
Năm, trong bối cảnh thị trường địa ốc đang lên cơn sốt, trong điều kiện thị trường cổ phiếu đang được xem là “cỗ máy đẻ ra tiền” với gia tốc cực lớn, việc các nhà đầu tư ngoảnh mặt với thị trường trái phiếu chính phủ âu cũng là điều dễ hiểu.
b) Thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu công ty được pháp luật Việt Nam thừa nhận theo Nghị định số 120/CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ. Trên nền tảng của Nghị định này, đã có một số doanh nghiệp thuộc ngànhđiện, xi măng, giao thông, xây dựng, xây dựng đề án trình Bộ Tài chính cho phép phát hành. Cho đến nay chúng ta đã triển khai một số đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nươca nhưng việc triển khai nay mới chỉ mang tính chất thí điểm. Hiện nay các trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước chưa được phân bán rộng rãi cho công chúng mà chủ yếu mới được phát hành trong phạm vi hẹp. Cũng như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp không đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong điều kiện các thủ tục, điều kiện vay vốn ngân hàng đã được nới lỏng và trong bối cảnh đất đai, cổ phiếu đang là “sự lựa chọn của tương lai” của giới đầ tư bởi khả năng sinh lời siêu ngạch của các tài sản này. Để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp phải đi tìm các công cụ tài chính mới. Và, lần đầu tiên trên thị trường tài chính nước ta, ý tưởng phát hành trái phiếu để huy động vốn được Công ty Giấy Hải Phòng (Hapaco), một Công ty đã niêm yết cổ phiếu, nêu trong đề án huyđộng 35 tỷ đồng cho dự án xây dựng nhà máy sản xuất giấy kraf. Trái phiếu chuyển đổi của Hapaco có mệnh giá 10.000 đồng, lãi suất 0,65%/tháng, thời hạn 5 năm và chuyển đổi thành cổ phiếu thường sau khi trái phiếu đáo hạn. Thế nhưng, phải đợi đến đề án huy động 25 tỷ đồng để cung cấp thiết bị, lắp đặt mạngcho các khu công nghiệp phần mềm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, khu công nghiệp Tân tạo....của Công ty cổ phần Công nghệ Thông tin (EIS), trái phiếu chuyển đổi EIS mới được chính thức tung ra trên thị trường vào tháng 5 năm 2001 qua dịch vụ tư vấn phát hành của Công ty chứng khoán Bảo Việt. Mặc dù vẫn có nhiều lần ý kiến khác nhau xung quanh về lổ hổng pháp lý, về độ an toàn, về kỹ thuật tính toán để xác định tỷ lệ chuyển đổi và giá chuyển đổi đủ điều kiện để sử dụng vốn qua kênh tài trợ trên thịtrường tài chính đã đánh dấu một bước phát triển đáng khích lệ của các dịch vụ tài chính trên thị trường trài chính nước ta.
c) Thị trường trái phiếu ngân hàng
Khác với ngành khác, có lẽ ngân hàng là một trong những ngành phát hành trái phiếu trên nhất. Kỳ phiếu (trái phiếu ngắn hạn dưới 1 năm) được một số ngân hàng thương mại phát hành chính thức từ năm 1992 và lượng phát hành nhanh chóng tăng lên vào những năm 1993, 1994. Từ năm 1994 tới nay, thực hiện Quyết định số 211-QĐ-NH1 ngày 22 tháng 9 năm 1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thể lệ phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại, nhiều ngân hàng thương mại lớn ở nước ta đã thường xuyên phát hành trái phiếu ngân hàng với khối lượng lớn. Nhờ vậy, đối với một bộ phận công chúng, mua trái phiếu ngân hàng đã trở thành sự lựa chọn quen thuộc trong thực đơn đầu tư. Đối với ngân hàng, thực hiện phương châm “đi vay để cho vay”, thời gian qua, trái phiếu ngân hàng là công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc đa dạng hoá thêm kênh huy động, giải toả kịp thời những mất cân đối giữa cung và cầu tín dụng trong nền kinh tế. Huy động vốn trên thị trường trái phiếu ngân hàng cũng có sự chuyển biến kể cả khi HSTC chính thúc đi vào hoạt động. Ngày 15 tháng 11 năm 2000, lần đầu tiên, trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, một trong bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, đã được niêm yết và giao dịch chính thức thông qua HSTC. Trái phiếu niêm yết đợt 1 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID1_100) có tổng trị giá là 83 tỷ, mệnh giá 100.000 đồng, lãi suất trả trước hàng năm, năm đầu 6,5%, các năm sau được thả nổi theo lãi suất của thị trường nhưng lãi suất tối thiểu được nhà phát hành cam kết trả theo lãi suất tiết kiệm 12 tháng cộng với 0,5%. Khi mới được tung ra trên thị trường, BID1_100 tỏ ra có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. trong 3 phiên giao dịch của trái phiếu, giá trị giao dịch của trái phiếu đã đạt trên 15% tổng giá trị giao dịch của toàn thị trường, giữ mức kỷ lục từ trước tới nay qua cách khớp lệnh. Trong điều kiện mất quân bình gay gắt giữa cung và cầu chứng khoán, quả thực, giao dịch của trái phiếu ngânhàng đã thổi một luồng sinh khi mới vào thị trường trái phiếu vẫn ddang trầm lắng bấy lâu nay.Đáng tiếc là trong thời gian gần đây, cũng như thị trường trái phiếu chính phủ, dưới áplực của sốt đất, sốt đô, sốt nhà, sốt giá (cổ phiếu), thị trường trái phiếu ngân hàng trở lên kém sôi động. Cũng vì thể mà trái phiếu niêm yết đợt 2 của ngân hàng (BID1_200) trở
lên kém hấp dẫn.
Tóm lại, từ thực trạng thị trường trái phiếu chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng đã phân tích ở trên, có thể thấy rằng , thị trường trái phiếu nước ta đang bộc lộ một số hạn chế và khiếm khuyết sau:
Một là, quy mô của thị trường vốn còn quá nhỏ bé so với tiềm năng cũng như đầu tư phát triển; chủng loại trái phiếu cũng chưa thật sự phong phú. Cho đến nay, trái phiếu của nước ta chỉ mới chiếm 2% GDP, một tỷ lệ còn quá khiêm tốn so với các nước trong khu vực (ở Malaysia tỷ lệ này là 50%). Các loại trái phiếu đựơc cung cấp trên thị trường chủ yếu là trái phiếu ngắn hạn, trái phiếu trung hạn của chính phủ và trái phiếu của ngân hàng. Trái phiếu công trình được phát hành vẫn còn ít. Rõ ràng trong bối cảnh này, việc hình thành và phát triển một thị trường thức cấp sản xuất trở nên vô cùng khó khăn vì nhu cầu chưngs khoán đủ lớn được phát hành thị trường sơ cấp nằm trong tay của đại bộ phận công chúng.
Hai là, ngoài các hạn chề về số lượng, các trái phiếu hiện có trên thị trường còn yếu kém về chất lượng....