lelongphuong_llp
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ
Mỹ được coi là nơi thể nghiệm thành công nhất của học thuyết phân quyền. Chính thể Mỹ áp dụng nguyên tắc này một cách cứng rắn. Rất nhiều nhà nước sau này cũng áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực nhưng hầu như không triệt để bằng như nhà nước Mỹ. Để tìm hiểu về việc áp dụng nguyên tắc này của nhà nước Mỹ, em xin chọn đề tài: “Đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ.”
* *
*
I – HIẾN PHÁP MỸ 1787
Cách mạng tư sản Mỹ là một cuộc cách mạng triệt để. Sau khi thành lập, nước Hoa Kỳ vẫn chưa có hiến pháp. Qua thực tiễn thời gian này, người Mỹ nhận thấy hậu quả của một chính quyền liên bang yếu là rất nhiều vấn đề quan trọng của liên bang không thể giải quyết. Vì vậy, tháng 5/1987, Hội nghị liên bang được triệu tập để xóa bỏ các điều khoản Liên bang và xây dựng hiến pháp liên bang. 55 đại biểu đã mất đến bốn tháng để tranh luận và thảo luận
Ngày 17/9/1787, Hiến pháp Hoa Kỳ - bộ luật tối cao của đất nước được thông qua, thiết lập nhà nước cộng hòa tổng thống. Bản hiến pháp này đã xác lập cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, chức năng, nhiệm vụ của các nhánh quyền lực.
Hiến pháp 1787 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng một cách cứng rắn và triệt để các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Với một bản hiến pháp có giá trị bền vững, hầu như không phải thay đổi kể từ Hiến pháp đầu tiên, nước Mỹ đã duy trì được sự ổn định trong hoạt động của bộ máy nhà nước và chính thể tổng thống cộng hoà trong suốt hơn 2 thế kỷ qua.
II – HỌC THUYẾT PHÂN CHIA QUYỀN LỰC
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây. Tư tưởng phân quyền trong xã hội Hy-lạp cổ đại đã có mầm mống từ Aristote. Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17-18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là J. Locke và Montesquieu.
Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia nó ra.
Hiến pháp Mỹ đã thể hiện sự áp dụng đầy đủ và triệt để thuyết phân chia quyền lực. Nguyên tắc tổ chức nhà nước được chia ra ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan giữ ba quyền này có quyền hành và thực thi quyền lực đó một cách hoàn toàn độc lập, tạo ra sự cân bằng và đối trọng quyền lực giữa các nhánh quyền, để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực. Nếu xét về bản chất, việc tổ chức nhà nước theo thuyết phân quyền không chỉ nhằm chống lại sự độc đoán, chuyên quyền và dàn xếp mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp tư sản, mà còn ngằm che đậy bản chất của nhà nước tư sản, lừa bịp quần chúng nhân dân.
III – SỰ ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CỦA HỌC THUYẾT PHÂN CHIA QUYỀN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC MỸ
Từ những điều khoản đầu tiên của Hiến pháp đã quy định: Quyền lập pháp trao cho Nghị viện (Điều 1); Quyền hành pháp trao cho Tổng thống (Điều 2); Quyền tư pháp được trao cho tòa án tối cao (Điều 3)
Trên cơ sở của thuyết phân quyền, nhà nước tư sản Mỹ đã được tổ chức theo ba nguyên tắc sau:
- Ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành khác nhau.
- Ba bộ phận đó có nhiệm kì khác nhau.
- Ba bộ phận đó có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không loại trừ hay tiếm quyền của nhau.
Các nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
1. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thánh khác nhau
• Nghị viện
Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu, do dấn chúng các tiểu bang bầu lên. Số đại biểu tỉ lệ với số dân của tiểu bang.
Thượng nghị viện là cơ quan thay mặt của các bang. Mỗi tiểu bang có hai thượng nghị sĩ. Theo khoản 3 điều 1, thượng nghị sĩ do quốc hội tiểu bang đầu lên. Sau đó , theo bổ sung và sửa đổi sau này (điều 17), thượng nghị sĩ cũng như hạ nghị sĩ đều do dân chúng trực tiếp bầu ra.
Khi là nghị sĩ của một viện thì không được bầu là nghị sĩ của viện kia và cũng không được làm thành viên của cơ quan hành pháp hay cơ quan tư pháp.
• Tổng thống
Tổng thống do toàn dân bầu ra, nhưng theo đầu phiếu gián tiếp.
Các bộ trưởng do tổng thống bổ nhiệm, và các quan chức này không thể là nghị sĩ.
Các cuộc bầu cử nghị viện và bầu cử tổng thống không được tiến hành đồng thời
• Pháp viện tối cao
Pháp viện tối cao gồm 9 thẩm phán do tổng thống bổ nhiệm và được sự chấp thuận của thượng nghị viện.
2. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nhiệm kì khác nhau.
• Nghị viện
Hạ nghị viện: các thành viên của hạ nghị viện có nhiệm kì 2 năm.
Thượng nghị viện: có nhiệm kì 6 năm. Sau mỗi hai năm có thể bầu lại 1/3 thượng nghị sĩ.
• Tổng thống
Nhiệm kì của tổng thống là 4 năm. Không ai có thể hơn 2 lần giữ cương vị tổng thống
• Pháp viện tối cao
Các thẩm phán của pháp viện tối cao có nhiệm kì suốt đời.
3. Nguyên tắc Ba bộ phận của nhà nước có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không bị loại trừ hay tiếm quyền
3.1 Hoạt động độc lập của ba bộ phận của nhà nước
3.1.1 Nghị viện
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định tất cả các quyền lập pháp đều thuộc về nghị viện bao gồm thượng nghị viện và hạ nghị viện. Việc thiết lập 2 viện với cơ chế kiềm chế nhau giữa chúng sẽ làm giảm bớt ưu thế của cơ quan lập pháp để nó cân bằng với bộ máy hành pháp. Từ năm 1913, 2 viện đều được cử tri bầu ra.
Cả hai viện của nghị viện có những thẩm quyền chung như sau:
- Có quyền thông qua tất cả các đạo luật. Một đề xuất được Nghị viện xem xét được gọi là một dự luật. Nếu đa số thành viên mỗi viện (Thượng viện và Hạ viện) thông qua (trong trường hợp Tổng thống phủ quyết, thì tỷ lệ đa số phải là hai phần ba), thì dự luật sẽ trở thành luật. Tuy nhiên, quyền làm luật của Nghị viện bị giới hạn. Điều I, Mục 9 của Hiến pháp cấm nghị viện thông qua một số loại luật.
- Được xây dựng chính sách biểu thuế và giám sát thu thuế.
- Được quyền phê chuẩn dự án ngân sách của chính quyền liên bang do Chính phủ tổng thống phê chuẩn.
- Có quyền tuyên bố chiến tranh và phân bổ ngân sách quốc phòng.
Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc đối trọng và cân bằng quyền lực nên hai viện (Thượng viện và Hạ viện) có chức năng và quyền hạn khác nhau. Ví dụ như:
Hạ nghị viện có quyền luận tội các quan chức cấp cao của nhà nước, kể cả tổng thống (khi có quá một phần hai hạ nghị sĩ đồng ý); nhưng quyền kết tội những quan chức này lại thuộc về Thượng nghị viện.
Hạ nghị viện có quyền phê chuẩn các dự án lợi tức do Tổng thống kí; còn Thượng nghị viện có quyền tán thành hay không tán thành các bộ trưởng, các thẩm phán và chánh án của Pháp viện tối cao do tổng thống bổ nhiệm, quyền phê chuẩn hay bác bỏ các điều ước quốc tế do tổng thống kí.
Tóm lại thẩm quyền của Quốc hội Mỹ được quy định theo hướng bảo đảm cho nó vừa độc lập vừa có toàn quyền khi thực hiện các chức năng của mình. Vừa đủ khả năng kiềm chế đối trọng với tổng thống.
3.1.2 Tổng thống
4. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các nguyên tắc của học thuyết phân quyền
Các Tổng thống đôi khi vẫn được gọi là "Chủ tịch Quốc hội", do sự quan tâm sát sao đến những quyết định của Quốc hội. Hơn nữa, quyền phủ quyết mà Hiến pháp trao cho Tổng thống đảm bảo rằng các quan điểm của Nhà Trắng phải được lắng nghe, nếu không muốn nói là luôn được chú ý lắng nghe trên Đồi Capitol.
Quyền lập pháp được Hiến pháp trao cho Quốc hội. Những năm trước 1900, đa số luật thông qua mỗi năm đều do Quốc hội đưa ra; các Thượng, Hạ nghị sĩ dự thảo và thông qua luật. Nhưng sang thế kỷ 20, vai trò này đã đổi chỗ. Thay đổi lớn nhất là vào thời kỳ Chính Sách Mới khi Tổng thống kiểm soát chặt chẽ việc làm luật. Từ đó, như nhà chính trị học James Robinson nhận định: Quốc hội hầu như nhượng mọi quyền chủ động cho ngành hành pháp.Trong hai thập niên vừa qua, gần 80% luật được thông qua đều xuất phát từ ngành hành pháp.
Tư pháp ở Mỹ được đánh giá là có mức độ độc lập rất cao nhưng thực chất vẫn can thiệp vào lập pháp, hành pháp đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ phía các cánh quyền lực đó. Hiến pháp Mỹ không hề quy định cho Toà án có quyền kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật của Quốc hội. Nhưng Toà án Tối cao Mỹ đã ảnh hưởng đến Quốc hội bằng quyền bảo hiến tự nhận
* *
*
Như vậy, trong suốt hai thế kỉ từ khi ra đời, tổ chức bộ máy nhà nước Mỹ luôn vững chắc và ổn định. Tuy còn một số khuyết điểm song có thể nói, tại Mỹ học thuyết phân quyền đã được áp dụng thành công nhất.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………1
NỘI DUNG
I – Hiến pháp Mỹ 1787………………………………………………..1
II – Học thuyết phân chia quyền lực…………………………………1
III – Sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia
quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ
máy nhà nước Mỹ……………………………………………………..2
1. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình
thành khác nhau…………………………………………………2
2. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nhiệm kì khác
nhau……………………………………………………………...3
3. Nguyên tắc Ba bộ phận của nhà nước có sự độc lập và
kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không bị loại trừ
hay tiếm quyền………………………………………………….3
3.1 Hoạt động độc lập của ba bộ phận của nhà nước………..3
3.1.1 Nghị viện…………………………………………..3
3.1.2 Tổng thống………………………………………...4
3.1.3 Pháp viện tối cao………………………………….5
3.2 Sự kiềm chế và đối trọng quyền lực giữa ba bộ
phận của nhà nước………………………………………...5
4. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các nguyên
tắc của học thuyết phân quyền……………………………..…….6
KẾT BÀI……………………………………………………….6
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ
Mỹ được coi là nơi thể nghiệm thành công nhất của học thuyết phân quyền. Chính thể Mỹ áp dụng nguyên tắc này một cách cứng rắn. Rất nhiều nhà nước sau này cũng áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực nhưng hầu như không triệt để bằng như nhà nước Mỹ. Để tìm hiểu về việc áp dụng nguyên tắc này của nhà nước Mỹ, em xin chọn đề tài: “Đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ.”
* *
*
I – HIẾN PHÁP MỸ 1787
Cách mạng tư sản Mỹ là một cuộc cách mạng triệt để. Sau khi thành lập, nước Hoa Kỳ vẫn chưa có hiến pháp. Qua thực tiễn thời gian này, người Mỹ nhận thấy hậu quả của một chính quyền liên bang yếu là rất nhiều vấn đề quan trọng của liên bang không thể giải quyết. Vì vậy, tháng 5/1987, Hội nghị liên bang được triệu tập để xóa bỏ các điều khoản Liên bang và xây dựng hiến pháp liên bang. 55 đại biểu đã mất đến bốn tháng để tranh luận và thảo luận
Ngày 17/9/1787, Hiến pháp Hoa Kỳ - bộ luật tối cao của đất nước được thông qua, thiết lập nhà nước cộng hòa tổng thống. Bản hiến pháp này đã xác lập cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, chức năng, nhiệm vụ của các nhánh quyền lực.
Hiến pháp 1787 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng một cách cứng rắn và triệt để các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Với một bản hiến pháp có giá trị bền vững, hầu như không phải thay đổi kể từ Hiến pháp đầu tiên, nước Mỹ đã duy trì được sự ổn định trong hoạt động của bộ máy nhà nước và chính thể tổng thống cộng hoà trong suốt hơn 2 thế kỷ qua.
II – HỌC THUYẾT PHÂN CHIA QUYỀN LỰC
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây. Tư tưởng phân quyền trong xã hội Hy-lạp cổ đại đã có mầm mống từ Aristote. Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17-18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là J. Locke và Montesquieu.
Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia nó ra.
Hiến pháp Mỹ đã thể hiện sự áp dụng đầy đủ và triệt để thuyết phân chia quyền lực. Nguyên tắc tổ chức nhà nước được chia ra ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan giữ ba quyền này có quyền hành và thực thi quyền lực đó một cách hoàn toàn độc lập, tạo ra sự cân bằng và đối trọng quyền lực giữa các nhánh quyền, để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực. Nếu xét về bản chất, việc tổ chức nhà nước theo thuyết phân quyền không chỉ nhằm chống lại sự độc đoán, chuyên quyền và dàn xếp mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp tư sản, mà còn ngằm che đậy bản chất của nhà nước tư sản, lừa bịp quần chúng nhân dân.
III – SỰ ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CỦA HỌC THUYẾT PHÂN CHIA QUYỀN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC MỸ
Từ những điều khoản đầu tiên của Hiến pháp đã quy định: Quyền lập pháp trao cho Nghị viện (Điều 1); Quyền hành pháp trao cho Tổng thống (Điều 2); Quyền tư pháp được trao cho tòa án tối cao (Điều 3)
Trên cơ sở của thuyết phân quyền, nhà nước tư sản Mỹ đã được tổ chức theo ba nguyên tắc sau:
- Ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành khác nhau.
- Ba bộ phận đó có nhiệm kì khác nhau.
- Ba bộ phận đó có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không loại trừ hay tiếm quyền của nhau.
Các nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
1. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thánh khác nhau
• Nghị viện
Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu, do dấn chúng các tiểu bang bầu lên. Số đại biểu tỉ lệ với số dân của tiểu bang.
Thượng nghị viện là cơ quan thay mặt của các bang. Mỗi tiểu bang có hai thượng nghị sĩ. Theo khoản 3 điều 1, thượng nghị sĩ do quốc hội tiểu bang đầu lên. Sau đó , theo bổ sung và sửa đổi sau này (điều 17), thượng nghị sĩ cũng như hạ nghị sĩ đều do dân chúng trực tiếp bầu ra.
Khi là nghị sĩ của một viện thì không được bầu là nghị sĩ của viện kia và cũng không được làm thành viên của cơ quan hành pháp hay cơ quan tư pháp.
• Tổng thống
Tổng thống do toàn dân bầu ra, nhưng theo đầu phiếu gián tiếp.
Các bộ trưởng do tổng thống bổ nhiệm, và các quan chức này không thể là nghị sĩ.
Các cuộc bầu cử nghị viện và bầu cử tổng thống không được tiến hành đồng thời
• Pháp viện tối cao
Pháp viện tối cao gồm 9 thẩm phán do tổng thống bổ nhiệm và được sự chấp thuận của thượng nghị viện.
2. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nhiệm kì khác nhau.
• Nghị viện
Hạ nghị viện: các thành viên của hạ nghị viện có nhiệm kì 2 năm.
Thượng nghị viện: có nhiệm kì 6 năm. Sau mỗi hai năm có thể bầu lại 1/3 thượng nghị sĩ.
• Tổng thống
Nhiệm kì của tổng thống là 4 năm. Không ai có thể hơn 2 lần giữ cương vị tổng thống
• Pháp viện tối cao
Các thẩm phán của pháp viện tối cao có nhiệm kì suốt đời.
3. Nguyên tắc Ba bộ phận của nhà nước có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không bị loại trừ hay tiếm quyền
3.1 Hoạt động độc lập của ba bộ phận của nhà nước
3.1.1 Nghị viện
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định tất cả các quyền lập pháp đều thuộc về nghị viện bao gồm thượng nghị viện và hạ nghị viện. Việc thiết lập 2 viện với cơ chế kiềm chế nhau giữa chúng sẽ làm giảm bớt ưu thế của cơ quan lập pháp để nó cân bằng với bộ máy hành pháp. Từ năm 1913, 2 viện đều được cử tri bầu ra.
Cả hai viện của nghị viện có những thẩm quyền chung như sau:
- Có quyền thông qua tất cả các đạo luật. Một đề xuất được Nghị viện xem xét được gọi là một dự luật. Nếu đa số thành viên mỗi viện (Thượng viện và Hạ viện) thông qua (trong trường hợp Tổng thống phủ quyết, thì tỷ lệ đa số phải là hai phần ba), thì dự luật sẽ trở thành luật. Tuy nhiên, quyền làm luật của Nghị viện bị giới hạn. Điều I, Mục 9 của Hiến pháp cấm nghị viện thông qua một số loại luật.
- Được xây dựng chính sách biểu thuế và giám sát thu thuế.
- Được quyền phê chuẩn dự án ngân sách của chính quyền liên bang do Chính phủ tổng thống phê chuẩn.
- Có quyền tuyên bố chiến tranh và phân bổ ngân sách quốc phòng.
Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc đối trọng và cân bằng quyền lực nên hai viện (Thượng viện và Hạ viện) có chức năng và quyền hạn khác nhau. Ví dụ như:
Hạ nghị viện có quyền luận tội các quan chức cấp cao của nhà nước, kể cả tổng thống (khi có quá một phần hai hạ nghị sĩ đồng ý); nhưng quyền kết tội những quan chức này lại thuộc về Thượng nghị viện.
Hạ nghị viện có quyền phê chuẩn các dự án lợi tức do Tổng thống kí; còn Thượng nghị viện có quyền tán thành hay không tán thành các bộ trưởng, các thẩm phán và chánh án của Pháp viện tối cao do tổng thống bổ nhiệm, quyền phê chuẩn hay bác bỏ các điều ước quốc tế do tổng thống kí.
Tóm lại thẩm quyền của Quốc hội Mỹ được quy định theo hướng bảo đảm cho nó vừa độc lập vừa có toàn quyền khi thực hiện các chức năng của mình. Vừa đủ khả năng kiềm chế đối trọng với tổng thống.
3.1.2 Tổng thống
4. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các nguyên tắc của học thuyết phân quyền
Các Tổng thống đôi khi vẫn được gọi là "Chủ tịch Quốc hội", do sự quan tâm sát sao đến những quyết định của Quốc hội. Hơn nữa, quyền phủ quyết mà Hiến pháp trao cho Tổng thống đảm bảo rằng các quan điểm của Nhà Trắng phải được lắng nghe, nếu không muốn nói là luôn được chú ý lắng nghe trên Đồi Capitol.
Quyền lập pháp được Hiến pháp trao cho Quốc hội. Những năm trước 1900, đa số luật thông qua mỗi năm đều do Quốc hội đưa ra; các Thượng, Hạ nghị sĩ dự thảo và thông qua luật. Nhưng sang thế kỷ 20, vai trò này đã đổi chỗ. Thay đổi lớn nhất là vào thời kỳ Chính Sách Mới khi Tổng thống kiểm soát chặt chẽ việc làm luật. Từ đó, như nhà chính trị học James Robinson nhận định: Quốc hội hầu như nhượng mọi quyền chủ động cho ngành hành pháp.Trong hai thập niên vừa qua, gần 80% luật được thông qua đều xuất phát từ ngành hành pháp.
Tư pháp ở Mỹ được đánh giá là có mức độ độc lập rất cao nhưng thực chất vẫn can thiệp vào lập pháp, hành pháp đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ phía các cánh quyền lực đó. Hiến pháp Mỹ không hề quy định cho Toà án có quyền kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật của Quốc hội. Nhưng Toà án Tối cao Mỹ đã ảnh hưởng đến Quốc hội bằng quyền bảo hiến tự nhận
* *
*
Như vậy, trong suốt hai thế kỉ từ khi ra đời, tổ chức bộ máy nhà nước Mỹ luôn vững chắc và ổn định. Tuy còn một số khuyết điểm song có thể nói, tại Mỹ học thuyết phân quyền đã được áp dụng thành công nhất.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………1
NỘI DUNG
I – Hiến pháp Mỹ 1787………………………………………………..1
II – Học thuyết phân chia quyền lực…………………………………1
III – Sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia
quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ
máy nhà nước Mỹ……………………………………………………..2
1. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình
thành khác nhau…………………………………………………2
2. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nhiệm kì khác
nhau……………………………………………………………...3
3. Nguyên tắc Ba bộ phận của nhà nước có sự độc lập và
kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không bị loại trừ
hay tiếm quyền………………………………………………….3
3.1 Hoạt động độc lập của ba bộ phận của nhà nước………..3
3.1.1 Nghị viện…………………………………………..3
3.1.2 Tổng thống………………………………………...4
3.1.3 Pháp viện tối cao………………………………….5
3.2 Sự kiềm chế và đối trọng quyền lực giữa ba bộ
phận của nhà nước………………………………………...5
4. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các nguyên
tắc của học thuyết phân quyền……………………………..…….6
KẾT BÀI……………………………………………………….6
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: