Download miễn phí Dấu vết bờ biển cổ pleistocen muộn phần muộn bị chôn vùi ở đáy biển nông ven bờ bắc trung bộ và tiềm năng sa khoáng liên quan





+ Theo chiều sâu, thành phần thạch học của 3 tầng trầm tích phía trên có đặc điểm phân bố như sau:
- Tầng thứ nhất được giới hạn bởi bề mặt phản xạ R0-R1 có chiều dày dao động từ 1 đến 22 m tuỳ theo vị trí lỗ khoan. Thành phần gồm: phần trên là bột sét, sét màu xám, xám nâu, tiếp xuống là bột cát - cát bột xám; kết quả phân tích cổ sinh cho tuổi Holocen muộn (Q23); phần dưới là bột sét - sét dẻo màu xám, xám xanh, đôi nơi là bột sét - sét màu xám, xám đen giàu mùn thực vật; rồi chuyển dần sang cát - cát sạn màu xám nhạt, xám trắng. Tuổi trầm tích được xác định theo phân tích vi cổ sinh, địa chấn địa tầng và C14 (7.650 ± 50 năm) là Holocen sớm-giữa (Q21-2)[2].
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

DẤU VẾT BỜ BIỂN CỔ PLEISTOCEN MUỘN PHẦN MUỘN BỊ CHÔN VÙI Ở ĐÁY BIỂN NÔNG VEN BỜ BẮC TRUNG BỘ VÀ TIỀM NĂNG SA KHOÁNG LIÊN QUAN
LA THẾ PHÚC1, VŨ TRƯỜNG SƠN2
1Bảo tàng Địa chất, 6 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội 2Liên đoàn Địa chất Biển, Trung Kính, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Tóm tắt: Kết quả nghiên cứu địa chất - địa mạo đáy biển Bắc Trung Bộ đã giúp phát hiện được dấu vết của các thế hệ bờ biển có tuổi từ Pleistocen muộn đến Holocen ở ngay trên tầng mặt. Liên quan tới các bờ biển đều có các cảnh quan và tổ hợp cộng sinh tướng trầm tích đặc trưng, gồm: địa hình đê cát bên ngoài và địa hình vũng vịnh biển bên trong; các thành tạo cát sạn bãi triều và đê cát ven bờ xen các thành tạo bùn sét đầm phá, vũng vịnh. Chôn vùi dưới lớp phủ trầm tích Holocen ở đới biển nông ven bờ (độ sâu 0-20 m nước) là các thành tạo trầm tích Pleistocen muộn. Bằng tổ hợp các phương pháp nghiên cứu đã phát hiện được dấu vết bờ biển cổ tuổi Pleistocen muộn, phần muộn bị chôn vùi dưới lớp trầm tích Holocen ở độ sâu 10-15 m nước biển ven bờ Bắc Trung Bộ. Bài báo này giới thiệu kết quả nghiên cứu phát hiện dấu ấn của bờ biển cổ tuổi Pleistocen muộn, phần muộn và tiềm năng sa khoáng liên quan bị chôn vùi ở đáy biển nông Bắc Trung Bộ.
I. MỞ ĐẦU
Việc nghiên cứu và phát hiện các thế hệ bờ biển cổ trong kỷ Đệ tứ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu địa chất nói chung, và tìm kiếm đánh giá sa khoáng biển nói riêng. Trước hết, nó giúp các nhà địa chất tái lập được lịch sử phát triển địa chất của thềm lục địa, sự dao động của mực nước biển, hoàn cảnh cổ địa lý - tướng đá, phân chia và liên kết địa tầng Đệ tứ đới ven biển và biển nông ven bờ cũng như thềm lục địa; đặc biệt là hoạch định kế hoạch và thi công công tác tìm kiếm đánh giá sa khoáng. Địa chất, địa mạo, trầm tích tầng mặt và sự dao động mực nước biển ở vịnh Bắc Bộ nói chung, và đáy biển Bắc Trung Bộ (từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế, Hình 1) nói riêng, đã được nhiều nhà địa chất trong và ngoài nước nghiên cứu, trong đó phải kể đến các công trình của các tác giả: Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Thôn, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Biểu, Trần Nghi, Lê Đức An, Nguyễn Địch Dỹ, Đỗ Văn Tự, Đinh Văn Thuận, Trần Đức Thạnh, … . Trên cơ sở khảo sát và lấy mẫu nghiên cứu, hầu hết các tác giả đều thống nhất: sự dao động của mực nước biển mang tính chu kỳ, trong mỗi pha, biển tiến hay lùi của mỗi chu kỳ xảy ra với tốc độ không đồng đều và không liên tục, tức là có những lúc mực nước biển tạm thời “ngừng” dao động. Những lúc mực nước biển tạm thời ngưng nghỉ một cách tương đối là lúc hình thành đường bờ biển với tổ hợp cộng sinh các tướng trầm tích đặc trưng cho đới bờ biển. Trên bề mặt đáy biển Bắc Trung Bộ (BTB) đã phát hiện dấu vết 3 đường bờ biển cổ có tuổi khác nhau, từ Pleistocen muộn đến Holocen sớm-giữa, phân bố ở 3 độ sâu khác nhau (100-110 m, 50-60 m và 25-30 m nước) [1,4,5,7]. Còn các bờ biển cổ bị chôn vùi nơi đây đang là những ẩn số rất cần được làm rõ để phục vụ cho công tác nghiên cứu địa chất và tìm kiếm đánh giá khoáng sản. Bằng tổ hợp các phương pháp nghiên cứu, đã phát hiện được dấu vết bờ biển cổ tuổi Pleistocen muộn, phần muộn (Q13b) bị chôn vùi dưới lớp trầm tích Holocen ở độ sâu 10-15 m nước biển ven bờ BTB.
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHÁT HIỆN DẤU VẾT BỜ BIỂN CỔ PLEISTOCEN MUỘN PHẦN MUỘN BỊ CHÔN VÙI
Để phát hiện đường bờ biển cổ bị chôn vùi ở đáy biển nông ven bờ BTB, các tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: địa chấn nông độ phân giải cao, thành phần vật chất trầm tích, tuổi trầm tích, môi trường thành tạo trầm tích.
Nga S¬n
§.H¶i V©n
§.Ngang
Hình 1. Sơ đồ vị trí đới biển nông vùng Bắc Trung Bộ
Tỷ lệ 1:8.500.000
1. Kết quả nghiên cứu địa chấn nông độ phân giải cao
Phương pháp nghiên cứu địa chấn nông độ phân giải cao nhằm phát hiện và xác định các đá gốc, đứt gãy, các tướng trầm tích, các “bẫy” sa khoáng, thành phần thạch học trầm tích, phân chia chi tiết các tầng trầm tích Đệ tứ theo đặc điểm sóng địa chấn phản xạ. Các “bẫy” sa khoáng chôn vùi dưới đáy biển BTB được xác định gồm các thành tạo eluvi - đeluvi trên đá gốc giàu khoáng vật nặng, các thành tạo aluvi và bờ biển trong khu vực phân bố đá gốc giàu khoáng vật nặng. Theo Evans (1995) có nhiều kiểu phản xạ và ranh giới phản xạ; mỗi kiểu đặc trưng cho thành phần thạch học, nguồn gốc (tướng) thành tạo và động lực môi trường trầm tích.
Trên cơ sở phân tích và luận giải hàng nghìn km tuyến địa chấn nông độ phân giải cao đới biển nông ven bờ (độ sâu 0-30 m nước) ở BTB đã phát hiện dấu vết bờ biển cổ có tuổi Pleistocen muộn, phần muộn (Q13b) (Hình 2). Dấu hiệu để nhận biết bờ biển trên các băng địa chấn nông độ phân giải cao là các kiểu phản xạ xiên chéo - xigma tại nơi vát nhọn của các trục đồng pha song song liên tục áp đáy, phản ánh trầm tích cát bãi triều. Các dấu hiệu này có thể nhìn thấy khá rõ trên các băng địa chấn theo phương vuông góc với bờ biển ở Quảng Bình, tiêu biểu là mặt cắt địa chấn tuyến T.93-36 (Hình 2). Trong khi đó, ở các băng địa chấn vùng Nga Sơn (Thanh Hoá) đến Đèo Ngang (Hà Tĩnh) chỉ nhận thấy chúng một cách mờ nhạt, như ở mặt cắt địa chấn tuyến T.94-18 (Hình 3); còn ở đáy biển vùng Thừa Thiên Huế hầu như không nhận thấy (Hình 4). Sở dĩ có sự khác biệt về mức độ nhận biết dấu hiệu, vị trí phân bố các đường bờ biển cổ trên các băng địa chấn nông độ phân giải cao là do yếu tố tân kiến tạo chi phối.
Theo các văn liệu (Phan Trung Điền, 2000; Nguyễn Biểu, 2001,…), cấu trúc Kainozoi biển nông BTB đã phát triển kế thừa trên các cấu trúc cổ và được chia thành hai vùng có đặc điểm hoạt động kiến tạo khác nhau, lấy đới nâng Anh Vũ (Đèo Ngang) làm ranh giới: vùng kiến tạo nâng được gọi là thềm hay cấu trúc đơn nghiêng Thanh-Nghệ-Tĩnh, vùng kiến tạo sụt lún phân dị được gọi là phụ bể Huế hay phụ bể Bình-Trị-Thiên. Mức độ bảo tồn của các bờ biển cổ phụ thuộc vào mức độ hoạt động tân kiến tạo. Tại các đới sụt tương đối, trầm tích chủ yếu là hạt mịn (bột-sét) và có bề dày lớn hơn, như ở đáy biển Quảng Bình, bờ biển cổ sau khi thành tạo được bảo tồn tốt nên thể hiện rõ trên băng địa chấn (Hình 2). Tại các đới nâng tương đối như vùng Thanh Hoá - Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, trầm tích chủ yếu là hạt thô hơn (cát, cát sạn sỏi lẫn cuội), bờ biển cổ sau khi được thành tạo thường bị xáo trộn, xóa nhòa bởi các quá trình địa động lực sau đó, cho nên dấu hiệu bờ biển cổ thể hiện trên băng địa chấn mờ nhạt hơn. Tài liệu về địa chấn - địa tầng cũng như chiều dày trầm tích Đệ tứ trên các băng địa chấn đã phản ánh đặc điểm cấu trúc này.
Vị trí phân bố bờ biển cổ tuổi Q13b theo độ sâu hiện tại cũng rất khác nhau. Ở đáy biển Quảng Bình, bờ biển cổ Q13b phân bố ở độ sâu 35-40 m nước và bị phủ bởi lớp trầm t...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top