lo_lem_he_pho_2810
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Khái quát vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong thời kỳ đổi mới này, vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế chiếm một vị trí quan trọng trên con đường đi lên CNXH ở nước ta. Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị . Nó như là một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lý,…gắn với một chế độ xã hội nhất định. Mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế là một trọng những trọng điểm mà Đảng và Nhà nước nước ta đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây. Nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Thời gian vừa qua, Đại hội Đảng lần thứ VI nước ta đã chỉ rõ sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu theo định hướng XHCN, coi sở hữu vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là phương tiện như mọi phương tiện thông thường có thể thay thế, mà là một bộ phận cấu thành của xã hội nhất định. CNXN có những đặc trưng riêng về sở hữu, những quan hệ sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ đó.
Vì vậy,nghiên cứu mối quan hệ giữa sở hữu với các thành phần kinh tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng CNXH nói chung và đặc biệt đối với thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nó đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức trước sự đổi mới của một nền kinh tế còn non trẻ đang phải đương đầu với những khó khăn trước mặt trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy vấn đề về mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế trở nên rất phức tạp và cần được nghiên cứu sâu sắc. Nó đòi hỏi một kiến thức sâu rộng và tổng hợp cao, có thể nắm bắt tình hình hiện tại cộng với khả năng tư duy cao, sự phân tích cặn kẽ thì mới có thể làm sáng tỏ vấn đề. Với kiến thức có hạn của em, khả năng tổng hợp còn chưa cao và còn rất nhiều hạn chế nên phạm vi bài viết của em chỉ phần nào đưa ra được lý luận về hai phạm trù trên.
Là một sinh viên nên bài viết của em còn nhiều hạn chế. Em rất mong được sự hướng dẫn và giúp đỡ của các thầy cô giáo và các bạn để cho những lần viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thành Thank thầy giáo Lê Thục đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài trong suốt quá trình viết bài.
Phần II: NộI dung
I. Lý luận về phạm trù ở hữu và thành phần kinh tế
1. Sở hữu.
a) Khái niệm về sở hữu.
Sở hữu là cách chiếm hữu cụ thể mang tính lịch xử cụ thể của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng như phí sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn với vật dụng (vật chất hay tinh thần ) - đối tượng của chiếm hữu. Đồng thời sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa con người với nhau. Vì vậy sở hữu là hình thức lịch sử xã hội nhất định của chiếm hữu tư liệu sản xuất. Là một phạm trù kinh tế, sở hữu biểu hiện tổng thể quan hệ kinh tế xã hội và pháp lý gắn với một chế độ xã hội nhất định.
Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở góc độ thứ nhất, nó được coi là phạm trù kinh tế khách quan. Với góc độ này, sở hữu được địng nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, người ta gắn sở hữu với quyền sở hữu và việc thực hiện quyền sở hữu về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất với tư cánh là kết quả của quyền sở hữu - cái mà các chủ sở hữu phải quan tâm.
Quan hệ sở hữu là sự tổng hoà các mối quan hệ sản xuất xã hội , tức là các quan hệ của của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao gồm quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng được xét trong tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ máy pháp lý.
Phạm trù sở hữu khi đươc luận hoá thành quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ cở hữu. Chế độ cở hữu là sự thế chế hoá các quan hệ sở hữu thành các quyền : sở hữu, sử dụng, kế thừa, thế chấp, chuyển nhượng … trong đó quyền sở hữu và quyền sử dụng là đáng chú ý nhất.
b) Đối tượng của sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, biến đổi. Trong quá trình vận động, đối tượng của sở hữu cũng có sự biến động thích ứng. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, đối tượng của sở hữu là những cái có sẵn trong tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội nộ lệ, cùng với sở hữu vật còn có sở hữu nộ lệ. Xã hội Phong Kiến đối tượng của sở hữu là TLSX (đất đai, công cụ lao động …). Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, đối tượng sở hữu không chỉ là hiện mà quan trọng hơn là giá trị và tiền tệ. Ngày nay, bên cạnh việc sở hữu giá trị và tiền tệ, còn có sở hữu trí tuệ, giáo dục…
2. Thành phần kinh tế
a) Khái niệm thành phần kinh tế:
- Quan niệm 1: Thành phần kinh tế là một hệ thống các mối quan hệ sản xuất xác định, đồng nhất, cùng tồn tại với hệ thống lịch sử khác trong khuôn khổ cùng một cư sở hạ tầng kinh tế. Mặt cơ bản tạo nên một TPKT, đó là: mặt hệ thống các mối quan hệ sản xuất xác đinh, đồng nhất nhưng chưa chỉ ra được mối quan hệ hữu cơ giữa hệ thống QHSX xác định với tính chất và trình độ của LLSX nhất định và do đó chưa thấy được sự vận động của nó …
- Quan niệm 2: Thành phần kinh tế là một khu vực kinh tế thay mặt cho một kiểu kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản suất. Theo quan niệm này nét đặc trưng nhất của TPKT là dựa trên chế độ sở hữu nhất định về TLSX. Đây là mặt bản chất nhất, do đó nó là căn cứ để phân biệt các thành phần kinh tế với nhau.
- Quan niệm 3: Thành phần kinh tế là một loại hình tổ chức hoạt động kinh tế hay là chưa phát triển tới độ hoàn chỉnh để tự xác lập mình như là một PTSX hoàn chỉnh nữa.
b) Các thành phần kinh tế nước ta hiện nay.
-Kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hay phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước, hay phần của nhà nước chiếm tỉ trọng khống chế.
Kinh tế nhà nước bao gồm các Doanh nghiệp nhà nước (kinh tế quốc doanh), các tài sản thuộc về nhà nước.
Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên tặc hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế xã hội. Cần hoàn thiện chế độ chính sách, luật pháp bảo đảm Doanh nghiệp nhà nước thật sự là đơn vị sản xuất hàng hoá có tư cách pháp nhân. Phân định rõ quyền sở hữu nhà nước với quyền thay mặt chủ sở hữu nhà nước, quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng quyền quản lý. Tách bạch chức năng quản lý kinh tế với quản lý tài sản của nhà nước và quản lý kinh doanh của Doanh nghiệp.
-Kinh tế hợp tác.
Kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia.
Hình thức quan trọng của kinh tế hợp tác là hợp tác xã. Kinh tế hợp tác xã là hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ theo những nguyên tắc, có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng, Kinh tế hợp tác xã được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi.
Nhà nước cần xây dựng và thực hiện có hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô đối với nông nghiệp , nông dận, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất đời sống , chính sách thịi trường để từng bước đưa kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
-Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp cảu nhà nước vào hoạt động của các đơn vị tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản nhà nước nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước, nhằm sử dụng khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát, giúp đỡ cảu nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò trong việc huy động, sử dụng vốn, kỹ thuạt công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của nhà tư bản. Cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty nước ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt nam. Đồng thời áp dụng nhiều hình thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và hợp tác với nước ngoài. Cải hiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
-Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hay một số nhà tư bản trong nước hay nước ngoìa đầu tư để sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Nét nổi bật cảu thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hay sở hữu hỗn hợp, thuê và bóc lột sức lao động làm thuê, thường đầu tư vào những ngành vốn ít, lãi cao. Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…
Cần khẳng địn nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lý, tạo điều kiện cho các nhà tư bản đầu tư phát triển.
-Kinh tế cá thể
Kinh tế cá thể của tiểu chủ, nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán, dịch vụ và cá thể. Sở hữu cảu thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, trình độ kĩ thuật thủ công. Mục đích chủ yếu là nuôi sống mình, còn tiểu chủ bản thân vừa lao động vừa thuê một số ít lao động.
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ rất có điều kiện phát triển trên cơ sở vốn, sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội. Do những ưu thế của nó, nhà nước và các thành phần kinh tế không thể không tạo điều kiện, hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn, kỹ thuật công nghệ, tiêu thụ sản phẩm … để từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hay làm vệ tinh cho các Doanh nghiệp lớn đang phát triển trong vùng.
II. Cơ cấu sở hữu nước ta hiện nay.
1. Vấn đề sở hữu trông nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Thời kỳ bao cấp, nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Giải quyết vấn đề sở hữu chúng ta mắc phải khuyết điểm khá trầm trọng. Chúng ta đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN và quan niêm rằng chỉ có chế độ công hữu mới bảo đảm mục đích mọi nhu cầu xã hội, mới thúc đẩy sản xuất theo kế hoạch nhà nước. Chúng ta coi chế độ là mục tiêu, là tiêu chí số một để đánh giá mức độ đạt được của quá trình tiến lên CNXH.
Điều đó dẫn tới một sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức là hợp tác xã càng lớn càng có nhiều “ hợp tác xã cấp cao”. Xí nghiệp có qui mô càng lớn thì chất lượng XHCN càng nhiều, càng tiến gần đến CNXH hơn. Chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí còn coi đó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục lại chế độ người bóc lột người.
Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về TLSX dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Song “ sở hữu toàn dân” thực chất là “sở hữu nhà nước”, nhà nước thay mặt cho người lao động thực hiện quyền sở hữu đối với các TLSX chứ không phải người lao động là chủ sở hữu trực tiếp, không đước bảo đảm bằng cơ sở kinh tế trực tiếp. Còn sở hữu tập thể” ( trong hợp tác xã ) được vận hành theo cơ chế cũ, tự nhiên biến thành ban quản lý hợp tác xã, còn xã viên thì như người đi làm thuê. Thực tế trên đã cho thấy người dân chỉ là chủ sở hữu hình thức, các quan hệ lợi ích chưa được tạo ra nhằm thúc đẩy người lao động hăng say làm việc dẫn tới năng suất lao động thấp, hàng hoá thiếu then, đời sống nhân dân trở nên ngày càng khó khăn.
Đại hội VI đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong quá trình thúc đẩy LLSX phát triển. Đảng ta đã nhận thức được LLSX lạc hậu không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà ngay cả khi QHSX và LLSX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố quá xa xôi với trình độ phát triển của LLSX. Trong khi nền kinh tế nước còn phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, trình độ xã hội hoá còn thấp, muốn hoàn thành quá trình cải tạo XHCN trong một thời gian ngắn, đưa nhanh QHSX lên trình độ xã hội hoá cao, bỏ qua các hình thức trung gian quá đọ là thoát li tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Chủ trương đó đã kìm hãm tiềm năng phát triển to lớn của nhân dân về vốn, sức lao động và tay nghề để phát triển LLSX. Hơn nữa, việc cải tạo QHSX chỉ chú ý tới chế độ tư hữu về TLSX . Ngay cả những đơn vị thuôc sở hữu toàn dân được trang bị kỹ thuật rất đầy đủ cũng làm ăn kém hiệu quả, cồng kềnh trong họat động.
2. Sở hữu và tính đâ dạng của nó trong nền kinh tế thị trường.
a) Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và có bản chất kinh tế chính trị.
Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Phạm trù sở hữu được luật hoá thành quyền sở hữu và quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của chế độ kinh tế xã hội. Chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề động lực, lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền và xã hội.
Hình thức, mức độ và phạm vi sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Sự thay đổi các hình thức sở hữu trong lịch sử không do ý chí của con người quyết định, mà là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Các Mác khi nghiên cứu cách sản xuất TBCN, ông quan niệm: “Trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau, và trong một loạt những quan hệ xã hội khác nhau, cho nên định
b) Cải tạo các quan hệ sở hữu trong nền kinh tế quốc dân.
Lý luận và thực tiễn chỉ ra rằng: cơ cấu sở hữu Nhà nước đơn nhất và thuần nhất đã làm mất đi cái cơ sở tư nhân và do đó, mất đi nội dung kinh tế của sở hữu, để trở về với hình thái chiếm hữu thực tế và pháp lý thuần tuý. Mà thực chất đây chỉ là thứ sở hữu xã hội hoá hình thức hay “sở hữu hành chính-danh mục”, dựa trên việc Nhà nước hoá triệt để các TLSX chủ yếu của xã hội , vì thế còn có tên gọi CNXH Nhà nước. Việc cải tạo quan hệ sở hữu Nhà nước và xây dựng cơ cấu sở hữu thích hợp của thị trường là tất yếu. Tuy nhiên, việc tư nhân hoá cấp tốc và cưỡng bức không tạo ra sở hữu kinh tế và các chủ thể tích cực của nền kinh tế thị trường, cùng lắm chỉ tạo ra các quan hệ sở hữu và thị trường “hành chính – danh mục”. Cải tạo sở hữu có những tính qui luật nhất định và cũng cần tới các khuynh hướng phát triển của sở hữu hiện đại.
Qui luật tiến hoá của sở hữu là thông qua các hình thức kinh tế quá độ; trong điều kiện ngày naym có thể là các hình thức thuê, khoán, cổ phần hoá hay hợp đồng… Về nguyên tắc, các hình thức này vốn không bắt nguồn từ các quan hệ sản xuất cũ, nhưng lại kết hợp các yếu tố cũ và mới của hai loại cơ chế kinh tế , do đó có khả năng thích ứng cao với các điều kiện kinh tế quá độ và cho phép phát triển các LLSX của thời kỳ này. Trên cái nền chung phát triển, các quan hệ sở hữu Nhà nước toàn dân được cảI biến dần để thích hợp với thị trường, nó có thể chuyển sang sở hữu tư nhân hay các hình thái sở hữu khác nhau của sở hữu tư nhân, hay có thể vẫn giữ nguyên hình thái Nhà nước của mình, nhưng thật ra nội dung thì đã thay đổi căn bản: là những hình thức sở hữu thị trường, mang đặc trưng liên hệ vật thể- vật chất và trao đổi tương đương. Khuynh hướng phát triển sở hữu hiện đại là xã hội hoá sở hữu và hữu sản hoá người lao động với các hình thức sở hữu xã hội, Nhà nước, tập thể , tư nhân và hỗn hợp, nhằm đảm bảo sự định hướng xã hội và dân chủ hoá các quá trình kinh tế. Một mặt, sở hữu ở đây được cụ thể hoávà gắn chặt với chủ thể sở hữu – lao động làm tăng tính tích cực trong công tác, mặt khác lại có sự tách rời phổ biến, phân chia và chuyên môn hoá các quyền sở hữu ( quyền sở hữu và
quyền sử dụng, định đoạt) nhằm đem lại hiệu quả cao cho sử dụng sở hữu. Đặc biệt, sở hữu cổ phần tỏ ra là hình thức quá độ điển hình, đáp ứng được các nhu cầu trên đây.
1. Kinh nghiệm nước ngoài: Chế độ sở hữu và nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu của Trung Quốc.
Trong 20 năm cải cách, mở cửa ở Trung Quốc, vấn đề chế độ sở hữu thường xuyên được quan tâm điều chỉnh và hoàn thiện về mặt kết cấu trên cơ sở kết quả của việc từng bước làm rõ “Chủ nghĩa xã hội làm gì và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc như thế nào?” làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giai đoạn đầu xây dựng CNXH ở Trung Quốc, kết quả của những cuộc tranh luận về “họ xã”, “họ tư”, “họ công”.Trung quốc khẳng định cải cách chế độ sở hữu là một vấn đề không thể né tránh nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất.
Đại hội XV của Đảng cộng sản Trung Quốc khẳng định: chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều hình thức cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản của giai đoạn đầu CNXH ở Trung Quốc:
Trung Quốc khẳng định vẫn là một nớc XHCN nên một vấn đề có tính nguyên tắc là phải kiên trì chế độ công hữu làm cơ sở. Nếu không kiên trì chế độ công hữu làm cơ sở thì không thể thực hiện được mục tiêu “cùng làm giàu” của tất cả nhân dân lao động.
Khẳng định vai trò chủ thể của công hữu và vai trò chủ đạo của quốc hữu.
Những hình thức sở hữu nào thì có lợi cho sự phát triển của sức sản xuất của XHCN, có lợi cho sự tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia XHCN, có lợi cho việc nâng cao mức sống của nhân dân đều được coi là nhân tố - tích cực , đều được khuyến khích phát triển tối đa. Theo đó, công hữu và phi công hữu đều được coi là những nhân tố tích cực.
Các hình thức sở hữu và việc cải cách kết cấu chế độ sở hữu ở Trung Quốc được khẳng định là phải nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội vì sức sản xuất của Trung Quốc chưa phát triển, nền kinh tế của Trung Quốc vẫn còn lạc hậu, một bộ phận lớn dân cư còn trong tình trạng cùng kiệt đói. Việc khuyến khích nhiều hình thức sở hữu cùng phát triển sẽ có lợi cho giải phóng và phát triển sức sản xuất. Thực tiễn 20 năm cải cách và mở cửa đã chứng minh đậm nét tính đúng dắn của quan điểm này.
Trước Đại hội XV, Trung Quốc vẫn dùng khái niệm thành phần kinh tế. Sau đại hội XV, dùng khái niệm “ nhiều hình thức sở hữu” thay cho khái niệm “nhiều thành phần kinh tế”. Theo sự lý giải của Trung Quốc thì sự thay đổi cách sử dụng khái niệm này có tác dụng nâng cao vai trò, địa vị của kinh tế phi công hữu, tôn trọng sự bình đẳng của các hình thức sở hữu phi công hữu đối với các hình thức sở hữu công hữu.
Về đại thể, nền kinh tế Trung Quốc được chia thành:
hữu
hữu
Năm hình thức này đều được coi là những bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế Trung Quốc ở giai đoạn đầu xây dựng CNXH. Quan niệm phân biệt, đối lập “họ xã”, “họ tư”, “họ công” đã bị xoá bỏ.
Phần III. Kết luận
1. Kết quả đạt được từ việc đổi mới quan hệ sở hữu và đổi mới thành phần kinh tế sau 15 năm đổi mới.
Đất nước ta đang trên con đường đi lên CNXH, xây dựng một đất nước giàu về kinh tế, mạnh về chính trị, đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Từ khi thực hiện những đường lối đổi mới trên chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng. Chúng ta đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyền dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu qủa và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyền biến mạnh về giáo dục và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói giảm nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo về vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
Trong 5 năm, chúng ta đã đạt được những kết đáng mừng vè các chỉ tiêu kinh tế như:
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5%.
- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2000:
Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 24,3%.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 36,6%
Tỷ trọng các ngành dịch vụ 39,1%
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14-16%/năm.
- Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,4 – 1,5 triệu lao động/năm.
Trong những năm qua chúng ta đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp , đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước, tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm đi đồng thời giữ nguyên những vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã có bước phát triển mới nhằm hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế trạng trại, doanh nghiệp nhỏ; các doanh nghiệp, công ty tư nhân, công ty hỗn hợp sở hữu, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển đa dạng về loại hình, về ngành nghề, góp phần quan trọng tạo ra của cải, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế ; thực hiện chính sách mới ban hành về khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ.
2. Khẳng định việc đổi mới quan hệ sở hữu và đổi mới thành phần kinh tế là hoàn toàn đúng đắn.
Từ khi có sự đổi mới cơ cấu sở hữu và đổi mới các thành phần kinh tế, đất nước ta có bước chuyển biên đáng kể về kinh tế. Điều này khẳng định việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế là hoàn toàn hợp lý. Nếu như trước đây, chúng ta giữ đúng hình thái làm việc quan liêu, bao cấp, trì trệ về phương pháp, không chịu đổi mới cơ cấu sở hữu, chúng ta đã phải chấp nhận một nền kinh tế cùng kiệt nàn, lạc hậu, kém phát triển. Thì nay chúng ta đã có những định hướng mới hoàn toàn phù hợp với sự đi lên của cả thế giới. Chúng ta thay đổi lại hệ thống sở hữu sao cho phù hợp nhất với các thành phần kinh tế trong nên kinh tế quốc dân. Kết quả là hoàn toàn khả quan. Chỉ trong vòng vài năm, đất nước ta đã thoát ra được khỏi sự cùng kiệt nàn, lạc hậu. Chúng ta đang dần dần theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Những chỉ số phát triển trên là minh chứng cho hướng đi đúng đắn của đất nước. Việc ra đời của sự đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá của các thành phần kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các đơn vị có nhu cầu tham gia vào hoạt động kinh tế.
Trên thực tế cho thấy, Việt Nam đã hoà nhập chung vào một nền kinh tế đầy sôI động, tạo nên sự biến động về chất. Đó là việc tạo ra nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia. Từ đó tạo ra một môi trường kinh tế phát triển lành mạnh không bị gò bó như thời kỳ nền kinh tế còn bao cấp. Đất nước ta đang chuyển mình thực sự từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang nước công nghiệp phát triển. Việt Nam phấn đấu đến năm 2002 cơ bản trở thành nước công nghiệp. Những thành tựu đạt được trên chính là do nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trên con đường xây dựng CNXH. Nó phản ánh con đường định hướng mà nhân dân ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn. Việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu và chuyển đổi các thành phần kinh tế là kịp thời và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Đứng trước sự thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam thì mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế là một vấn đề hết sực phức tạp. Bởi vì giữa chúng có sự đan xen giữa những yếu tố chủ quan và khách quan với nhau. Chúng tác động thường xuyên lên nhau, chi phối lẫn nhau. Sự liên hệ này tác động đến các yếu tố như quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối giữa LLSX và QHSX. Bởi vậy cần có cách tiếp cận khoa học không phiếm diện khi đổi mới và xác định mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế để tránh những sai lầm mà trước đây đã mắc phải.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Khái quát vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong thời kỳ đổi mới này, vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế chiếm một vị trí quan trọng trên con đường đi lên CNXH ở nước ta. Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị . Nó như là một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lý,…gắn với một chế độ xã hội nhất định. Mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế là một trọng những trọng điểm mà Đảng và Nhà nước nước ta đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây. Nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Thời gian vừa qua, Đại hội Đảng lần thứ VI nước ta đã chỉ rõ sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu theo định hướng XHCN, coi sở hữu vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là phương tiện như mọi phương tiện thông thường có thể thay thế, mà là một bộ phận cấu thành của xã hội nhất định. CNXN có những đặc trưng riêng về sở hữu, những quan hệ sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ đó.
Vì vậy,nghiên cứu mối quan hệ giữa sở hữu với các thành phần kinh tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng CNXH nói chung và đặc biệt đối với thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nó đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức trước sự đổi mới của một nền kinh tế còn non trẻ đang phải đương đầu với những khó khăn trước mặt trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy vấn đề về mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế trở nên rất phức tạp và cần được nghiên cứu sâu sắc. Nó đòi hỏi một kiến thức sâu rộng và tổng hợp cao, có thể nắm bắt tình hình hiện tại cộng với khả năng tư duy cao, sự phân tích cặn kẽ thì mới có thể làm sáng tỏ vấn đề. Với kiến thức có hạn của em, khả năng tổng hợp còn chưa cao và còn rất nhiều hạn chế nên phạm vi bài viết của em chỉ phần nào đưa ra được lý luận về hai phạm trù trên.
Là một sinh viên nên bài viết của em còn nhiều hạn chế. Em rất mong được sự hướng dẫn và giúp đỡ của các thầy cô giáo và các bạn để cho những lần viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thành Thank thầy giáo Lê Thục đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài trong suốt quá trình viết bài.
Phần II: NộI dung
I. Lý luận về phạm trù ở hữu và thành phần kinh tế
1. Sở hữu.
a) Khái niệm về sở hữu.
Sở hữu là cách chiếm hữu cụ thể mang tính lịch xử cụ thể của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng như phí sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn với vật dụng (vật chất hay tinh thần ) - đối tượng của chiếm hữu. Đồng thời sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa con người với nhau. Vì vậy sở hữu là hình thức lịch sử xã hội nhất định của chiếm hữu tư liệu sản xuất. Là một phạm trù kinh tế, sở hữu biểu hiện tổng thể quan hệ kinh tế xã hội và pháp lý gắn với một chế độ xã hội nhất định.
Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở góc độ thứ nhất, nó được coi là phạm trù kinh tế khách quan. Với góc độ này, sở hữu được địng nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, người ta gắn sở hữu với quyền sở hữu và việc thực hiện quyền sở hữu về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất với tư cánh là kết quả của quyền sở hữu - cái mà các chủ sở hữu phải quan tâm.
Quan hệ sở hữu là sự tổng hoà các mối quan hệ sản xuất xã hội , tức là các quan hệ của của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao gồm quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng được xét trong tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ máy pháp lý.
Phạm trù sở hữu khi đươc luận hoá thành quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ cở hữu. Chế độ cở hữu là sự thế chế hoá các quan hệ sở hữu thành các quyền : sở hữu, sử dụng, kế thừa, thế chấp, chuyển nhượng … trong đó quyền sở hữu và quyền sử dụng là đáng chú ý nhất.
b) Đối tượng của sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, biến đổi. Trong quá trình vận động, đối tượng của sở hữu cũng có sự biến động thích ứng. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, đối tượng của sở hữu là những cái có sẵn trong tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội nộ lệ, cùng với sở hữu vật còn có sở hữu nộ lệ. Xã hội Phong Kiến đối tượng của sở hữu là TLSX (đất đai, công cụ lao động …). Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, đối tượng sở hữu không chỉ là hiện mà quan trọng hơn là giá trị và tiền tệ. Ngày nay, bên cạnh việc sở hữu giá trị và tiền tệ, còn có sở hữu trí tuệ, giáo dục…
2. Thành phần kinh tế
a) Khái niệm thành phần kinh tế:
- Quan niệm 1: Thành phần kinh tế là một hệ thống các mối quan hệ sản xuất xác định, đồng nhất, cùng tồn tại với hệ thống lịch sử khác trong khuôn khổ cùng một cư sở hạ tầng kinh tế. Mặt cơ bản tạo nên một TPKT, đó là: mặt hệ thống các mối quan hệ sản xuất xác đinh, đồng nhất nhưng chưa chỉ ra được mối quan hệ hữu cơ giữa hệ thống QHSX xác định với tính chất và trình độ của LLSX nhất định và do đó chưa thấy được sự vận động của nó …
- Quan niệm 2: Thành phần kinh tế là một khu vực kinh tế thay mặt cho một kiểu kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản suất. Theo quan niệm này nét đặc trưng nhất của TPKT là dựa trên chế độ sở hữu nhất định về TLSX. Đây là mặt bản chất nhất, do đó nó là căn cứ để phân biệt các thành phần kinh tế với nhau.
- Quan niệm 3: Thành phần kinh tế là một loại hình tổ chức hoạt động kinh tế hay là chưa phát triển tới độ hoàn chỉnh để tự xác lập mình như là một PTSX hoàn chỉnh nữa.
b) Các thành phần kinh tế nước ta hiện nay.
-Kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hay phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước, hay phần của nhà nước chiếm tỉ trọng khống chế.
Kinh tế nhà nước bao gồm các Doanh nghiệp nhà nước (kinh tế quốc doanh), các tài sản thuộc về nhà nước.
Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên tặc hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế xã hội. Cần hoàn thiện chế độ chính sách, luật pháp bảo đảm Doanh nghiệp nhà nước thật sự là đơn vị sản xuất hàng hoá có tư cách pháp nhân. Phân định rõ quyền sở hữu nhà nước với quyền thay mặt chủ sở hữu nhà nước, quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng quyền quản lý. Tách bạch chức năng quản lý kinh tế với quản lý tài sản của nhà nước và quản lý kinh doanh của Doanh nghiệp.
-Kinh tế hợp tác.
Kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia.
Hình thức quan trọng của kinh tế hợp tác là hợp tác xã. Kinh tế hợp tác xã là hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ theo những nguyên tắc, có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng, Kinh tế hợp tác xã được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi.
Nhà nước cần xây dựng và thực hiện có hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô đối với nông nghiệp , nông dận, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất đời sống , chính sách thịi trường để từng bước đưa kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
-Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp cảu nhà nước vào hoạt động của các đơn vị tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản nhà nước nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước, nhằm sử dụng khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát, giúp đỡ cảu nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò trong việc huy động, sử dụng vốn, kỹ thuạt công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của nhà tư bản. Cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty nước ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt nam. Đồng thời áp dụng nhiều hình thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và hợp tác với nước ngoài. Cải hiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
-Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hay một số nhà tư bản trong nước hay nước ngoìa đầu tư để sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Nét nổi bật cảu thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hay sở hữu hỗn hợp, thuê và bóc lột sức lao động làm thuê, thường đầu tư vào những ngành vốn ít, lãi cao. Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…
Cần khẳng địn nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lý, tạo điều kiện cho các nhà tư bản đầu tư phát triển.
-Kinh tế cá thể
Kinh tế cá thể của tiểu chủ, nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán, dịch vụ và cá thể. Sở hữu cảu thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, trình độ kĩ thuật thủ công. Mục đích chủ yếu là nuôi sống mình, còn tiểu chủ bản thân vừa lao động vừa thuê một số ít lao động.
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ rất có điều kiện phát triển trên cơ sở vốn, sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội. Do những ưu thế của nó, nhà nước và các thành phần kinh tế không thể không tạo điều kiện, hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn, kỹ thuật công nghệ, tiêu thụ sản phẩm … để từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hay làm vệ tinh cho các Doanh nghiệp lớn đang phát triển trong vùng.
II. Cơ cấu sở hữu nước ta hiện nay.
1. Vấn đề sở hữu trông nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Thời kỳ bao cấp, nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Giải quyết vấn đề sở hữu chúng ta mắc phải khuyết điểm khá trầm trọng. Chúng ta đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN và quan niêm rằng chỉ có chế độ công hữu mới bảo đảm mục đích mọi nhu cầu xã hội, mới thúc đẩy sản xuất theo kế hoạch nhà nước. Chúng ta coi chế độ là mục tiêu, là tiêu chí số một để đánh giá mức độ đạt được của quá trình tiến lên CNXH.
Điều đó dẫn tới một sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức là hợp tác xã càng lớn càng có nhiều “ hợp tác xã cấp cao”. Xí nghiệp có qui mô càng lớn thì chất lượng XHCN càng nhiều, càng tiến gần đến CNXH hơn. Chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí còn coi đó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục lại chế độ người bóc lột người.
Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về TLSX dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Song “ sở hữu toàn dân” thực chất là “sở hữu nhà nước”, nhà nước thay mặt cho người lao động thực hiện quyền sở hữu đối với các TLSX chứ không phải người lao động là chủ sở hữu trực tiếp, không đước bảo đảm bằng cơ sở kinh tế trực tiếp. Còn sở hữu tập thể” ( trong hợp tác xã ) được vận hành theo cơ chế cũ, tự nhiên biến thành ban quản lý hợp tác xã, còn xã viên thì như người đi làm thuê. Thực tế trên đã cho thấy người dân chỉ là chủ sở hữu hình thức, các quan hệ lợi ích chưa được tạo ra nhằm thúc đẩy người lao động hăng say làm việc dẫn tới năng suất lao động thấp, hàng hoá thiếu then, đời sống nhân dân trở nên ngày càng khó khăn.
Đại hội VI đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong quá trình thúc đẩy LLSX phát triển. Đảng ta đã nhận thức được LLSX lạc hậu không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà ngay cả khi QHSX và LLSX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố quá xa xôi với trình độ phát triển của LLSX. Trong khi nền kinh tế nước còn phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, trình độ xã hội hoá còn thấp, muốn hoàn thành quá trình cải tạo XHCN trong một thời gian ngắn, đưa nhanh QHSX lên trình độ xã hội hoá cao, bỏ qua các hình thức trung gian quá đọ là thoát li tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Chủ trương đó đã kìm hãm tiềm năng phát triển to lớn của nhân dân về vốn, sức lao động và tay nghề để phát triển LLSX. Hơn nữa, việc cải tạo QHSX chỉ chú ý tới chế độ tư hữu về TLSX . Ngay cả những đơn vị thuôc sở hữu toàn dân được trang bị kỹ thuật rất đầy đủ cũng làm ăn kém hiệu quả, cồng kềnh trong họat động.
2. Sở hữu và tính đâ dạng của nó trong nền kinh tế thị trường.
a) Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và có bản chất kinh tế chính trị.
Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Phạm trù sở hữu được luật hoá thành quyền sở hữu và quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của chế độ kinh tế xã hội. Chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề động lực, lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền và xã hội.
Hình thức, mức độ và phạm vi sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Sự thay đổi các hình thức sở hữu trong lịch sử không do ý chí của con người quyết định, mà là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Các Mác khi nghiên cứu cách sản xuất TBCN, ông quan niệm: “Trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau, và trong một loạt những quan hệ xã hội khác nhau, cho nên định
b) Cải tạo các quan hệ sở hữu trong nền kinh tế quốc dân.
Lý luận và thực tiễn chỉ ra rằng: cơ cấu sở hữu Nhà nước đơn nhất và thuần nhất đã làm mất đi cái cơ sở tư nhân và do đó, mất đi nội dung kinh tế của sở hữu, để trở về với hình thái chiếm hữu thực tế và pháp lý thuần tuý. Mà thực chất đây chỉ là thứ sở hữu xã hội hoá hình thức hay “sở hữu hành chính-danh mục”, dựa trên việc Nhà nước hoá triệt để các TLSX chủ yếu của xã hội , vì thế còn có tên gọi CNXH Nhà nước. Việc cải tạo quan hệ sở hữu Nhà nước và xây dựng cơ cấu sở hữu thích hợp của thị trường là tất yếu. Tuy nhiên, việc tư nhân hoá cấp tốc và cưỡng bức không tạo ra sở hữu kinh tế và các chủ thể tích cực của nền kinh tế thị trường, cùng lắm chỉ tạo ra các quan hệ sở hữu và thị trường “hành chính – danh mục”. Cải tạo sở hữu có những tính qui luật nhất định và cũng cần tới các khuynh hướng phát triển của sở hữu hiện đại.
Qui luật tiến hoá của sở hữu là thông qua các hình thức kinh tế quá độ; trong điều kiện ngày naym có thể là các hình thức thuê, khoán, cổ phần hoá hay hợp đồng… Về nguyên tắc, các hình thức này vốn không bắt nguồn từ các quan hệ sản xuất cũ, nhưng lại kết hợp các yếu tố cũ và mới của hai loại cơ chế kinh tế , do đó có khả năng thích ứng cao với các điều kiện kinh tế quá độ và cho phép phát triển các LLSX của thời kỳ này. Trên cái nền chung phát triển, các quan hệ sở hữu Nhà nước toàn dân được cảI biến dần để thích hợp với thị trường, nó có thể chuyển sang sở hữu tư nhân hay các hình thái sở hữu khác nhau của sở hữu tư nhân, hay có thể vẫn giữ nguyên hình thái Nhà nước của mình, nhưng thật ra nội dung thì đã thay đổi căn bản: là những hình thức sở hữu thị trường, mang đặc trưng liên hệ vật thể- vật chất và trao đổi tương đương. Khuynh hướng phát triển sở hữu hiện đại là xã hội hoá sở hữu và hữu sản hoá người lao động với các hình thức sở hữu xã hội, Nhà nước, tập thể , tư nhân và hỗn hợp, nhằm đảm bảo sự định hướng xã hội và dân chủ hoá các quá trình kinh tế. Một mặt, sở hữu ở đây được cụ thể hoávà gắn chặt với chủ thể sở hữu – lao động làm tăng tính tích cực trong công tác, mặt khác lại có sự tách rời phổ biến, phân chia và chuyên môn hoá các quyền sở hữu ( quyền sở hữu và
quyền sử dụng, định đoạt) nhằm đem lại hiệu quả cao cho sử dụng sở hữu. Đặc biệt, sở hữu cổ phần tỏ ra là hình thức quá độ điển hình, đáp ứng được các nhu cầu trên đây.
1. Kinh nghiệm nước ngoài: Chế độ sở hữu và nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu của Trung Quốc.
Trong 20 năm cải cách, mở cửa ở Trung Quốc, vấn đề chế độ sở hữu thường xuyên được quan tâm điều chỉnh và hoàn thiện về mặt kết cấu trên cơ sở kết quả của việc từng bước làm rõ “Chủ nghĩa xã hội làm gì và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc như thế nào?” làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giai đoạn đầu xây dựng CNXH ở Trung Quốc, kết quả của những cuộc tranh luận về “họ xã”, “họ tư”, “họ công”.Trung quốc khẳng định cải cách chế độ sở hữu là một vấn đề không thể né tránh nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất.
Đại hội XV của Đảng cộng sản Trung Quốc khẳng định: chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều hình thức cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản của giai đoạn đầu CNXH ở Trung Quốc:
Trung Quốc khẳng định vẫn là một nớc XHCN nên một vấn đề có tính nguyên tắc là phải kiên trì chế độ công hữu làm cơ sở. Nếu không kiên trì chế độ công hữu làm cơ sở thì không thể thực hiện được mục tiêu “cùng làm giàu” của tất cả nhân dân lao động.
Khẳng định vai trò chủ thể của công hữu và vai trò chủ đạo của quốc hữu.
Những hình thức sở hữu nào thì có lợi cho sự phát triển của sức sản xuất của XHCN, có lợi cho sự tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia XHCN, có lợi cho việc nâng cao mức sống của nhân dân đều được coi là nhân tố - tích cực , đều được khuyến khích phát triển tối đa. Theo đó, công hữu và phi công hữu đều được coi là những nhân tố tích cực.
Các hình thức sở hữu và việc cải cách kết cấu chế độ sở hữu ở Trung Quốc được khẳng định là phải nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội vì sức sản xuất của Trung Quốc chưa phát triển, nền kinh tế của Trung Quốc vẫn còn lạc hậu, một bộ phận lớn dân cư còn trong tình trạng cùng kiệt đói. Việc khuyến khích nhiều hình thức sở hữu cùng phát triển sẽ có lợi cho giải phóng và phát triển sức sản xuất. Thực tiễn 20 năm cải cách và mở cửa đã chứng minh đậm nét tính đúng dắn của quan điểm này.
Trước Đại hội XV, Trung Quốc vẫn dùng khái niệm thành phần kinh tế. Sau đại hội XV, dùng khái niệm “ nhiều hình thức sở hữu” thay cho khái niệm “nhiều thành phần kinh tế”. Theo sự lý giải của Trung Quốc thì sự thay đổi cách sử dụng khái niệm này có tác dụng nâng cao vai trò, địa vị của kinh tế phi công hữu, tôn trọng sự bình đẳng của các hình thức sở hữu phi công hữu đối với các hình thức sở hữu công hữu.
Về đại thể, nền kinh tế Trung Quốc được chia thành:
hữu
hữu
Năm hình thức này đều được coi là những bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế Trung Quốc ở giai đoạn đầu xây dựng CNXH. Quan niệm phân biệt, đối lập “họ xã”, “họ tư”, “họ công” đã bị xoá bỏ.
Phần III. Kết luận
1. Kết quả đạt được từ việc đổi mới quan hệ sở hữu và đổi mới thành phần kinh tế sau 15 năm đổi mới.
Đất nước ta đang trên con đường đi lên CNXH, xây dựng một đất nước giàu về kinh tế, mạnh về chính trị, đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Từ khi thực hiện những đường lối đổi mới trên chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng. Chúng ta đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyền dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu qủa và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyền biến mạnh về giáo dục và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói giảm nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo về vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
Trong 5 năm, chúng ta đã đạt được những kết đáng mừng vè các chỉ tiêu kinh tế như:
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5%.
- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2000:
Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 24,3%.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 36,6%
Tỷ trọng các ngành dịch vụ 39,1%
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14-16%/năm.
- Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,4 – 1,5 triệu lao động/năm.
Trong những năm qua chúng ta đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp , đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước, tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm đi đồng thời giữ nguyên những vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã có bước phát triển mới nhằm hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế trạng trại, doanh nghiệp nhỏ; các doanh nghiệp, công ty tư nhân, công ty hỗn hợp sở hữu, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển đa dạng về loại hình, về ngành nghề, góp phần quan trọng tạo ra của cải, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế ; thực hiện chính sách mới ban hành về khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ.
2. Khẳng định việc đổi mới quan hệ sở hữu và đổi mới thành phần kinh tế là hoàn toàn đúng đắn.
Từ khi có sự đổi mới cơ cấu sở hữu và đổi mới các thành phần kinh tế, đất nước ta có bước chuyển biên đáng kể về kinh tế. Điều này khẳng định việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế là hoàn toàn hợp lý. Nếu như trước đây, chúng ta giữ đúng hình thái làm việc quan liêu, bao cấp, trì trệ về phương pháp, không chịu đổi mới cơ cấu sở hữu, chúng ta đã phải chấp nhận một nền kinh tế cùng kiệt nàn, lạc hậu, kém phát triển. Thì nay chúng ta đã có những định hướng mới hoàn toàn phù hợp với sự đi lên của cả thế giới. Chúng ta thay đổi lại hệ thống sở hữu sao cho phù hợp nhất với các thành phần kinh tế trong nên kinh tế quốc dân. Kết quả là hoàn toàn khả quan. Chỉ trong vòng vài năm, đất nước ta đã thoát ra được khỏi sự cùng kiệt nàn, lạc hậu. Chúng ta đang dần dần theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Những chỉ số phát triển trên là minh chứng cho hướng đi đúng đắn của đất nước. Việc ra đời của sự đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá của các thành phần kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các đơn vị có nhu cầu tham gia vào hoạt động kinh tế.
Trên thực tế cho thấy, Việt Nam đã hoà nhập chung vào một nền kinh tế đầy sôI động, tạo nên sự biến động về chất. Đó là việc tạo ra nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia. Từ đó tạo ra một môi trường kinh tế phát triển lành mạnh không bị gò bó như thời kỳ nền kinh tế còn bao cấp. Đất nước ta đang chuyển mình thực sự từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang nước công nghiệp phát triển. Việt Nam phấn đấu đến năm 2002 cơ bản trở thành nước công nghiệp. Những thành tựu đạt được trên chính là do nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trên con đường xây dựng CNXH. Nó phản ánh con đường định hướng mà nhân dân ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn. Việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu và chuyển đổi các thành phần kinh tế là kịp thời và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Đứng trước sự thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam thì mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế là một vấn đề hết sực phức tạp. Bởi vì giữa chúng có sự đan xen giữa những yếu tố chủ quan và khách quan với nhau. Chúng tác động thường xuyên lên nhau, chi phối lẫn nhau. Sự liên hệ này tác động đến các yếu tố như quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối giữa LLSX và QHSX. Bởi vậy cần có cách tiếp cận khoa học không phiếm diện khi đổi mới và xác định mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế để tránh những sai lầm mà trước đây đã mắc phải.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: