Download Đề án Thị trường chứng khoán trước ngưỡng cửa hội nhập
* Kinh doanh chứng khoán
Đây là nghiệp vụ mua bán chứng khoán cho chính mình và tự gánh chịu rủi ro của các nhà trung gian chứng khoán (giống những nhà đầu tư). Với vai trò kinh doanh chứng khoán, các nhà trung gian chứng khoán (các thương gia chứng khoán) là một thành viên quan trọng của Thị trường chứng khoán, có tác dụng làm cho hoạt động của Thị trường chứng khoán đều đặn, không bị gián đoạn và sôi động. Tuy nhiên vì các thương gia chứng khoán thực hiện việc giao dịch kinh doanh chứng khoán cho chính mình bằng cách kiếm lời qua chênh lệch giá, do đó, có thể chính họ lại là tác nhân tạo nên sự biến động giá chứng khoán một cách giả tạo thông qua hành động đầu cơ. Vì vậy, ở trên Thị trường chứng khoán, những thương gia chứng khoán (dealers) không chỉ đơn thuần có vai trò kinh doanh chứng khoán mà còn phải có nghĩa vụ kiểm soát sự mất cân đối thị trường, từ đó duy trì tính ổn định trên thị trường. Một công ty chứng khoán hành nghề kinh doanh khi họ đóng vai trò là chủ nhân (principal) của lượng chứng khoán giao dịch, nghĩa là khi họ mua hay bán bằng chính tài khoản (hay tồn kho)của họ. Thuật ngữ chuyên ngành gọi hoạt động kinh doanh chứng khoán này là “giao dịch có vị thế” hay có sở hữu (position trading).Giao dịch có vị thế của một công ty có vị thế của một công ty chứng khoán có thể được hiểu là công ty đang trong “tư thế kiểm soát” lượng chứng khoán đang giao dịch. Nhằm mục đích duy trì một thị trường trung thực và ổn định, các công ty thành viên có chức năng kinh doanh không được giao dịch vượt quá giá trị tài sản mà họ đang sở hữu.Trong Thị trường chứng khoán điều tối kỵ là thủ thuật chứng khoán điều tối kỵ là thủ thuật giao dịch để làm giá hay các động tác nhằm đánh lừa quần chúng đầu tư. Luật lệ chứng khoán luôn đặt vấn đề này thành ưu tiên hàng đầu cần được quan tâm chu đáo. Ở Mỹ, UB chứng khoán quốc gia quy định: người thương gia chứng khoán phải dành 60% giao dịch của mình cho hoạt động có tính chất ổn định thị trường, tức là chỉ được mua vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang có xu hướng tăng. Nói cách khác, họ là tác nhân giúp tăng cầu khi giá hạ và tăng cung khi giá tăng để ổn định giá cả thị trường.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
+ Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết hỗ trợ lẫn nhau.Về bản chất đây là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp vì chỉ có tại thị trường này vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
*Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo hai cách sau:
Cách thứ nhất, tổ chức thành các Sở giao dịch (Stock Exchange). Tại đây ngưòi mua và người bán (hay đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán tập trung tiêu biểu được biết đến là Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn, Sở giao dịch chứng khoán Mỹ, Sở giao dịch chứng khoán Pari.
Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung ,thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC: Over - The - Counter Market) là thị trường của các nhà buôn , những người tạo thị trường (Market Makers). Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua, bán với các nhà buôn khác cũng như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với thị trường Sở giao dịch.
Ngoài hai thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Ngoài ra người ta còn phân loại thị trường chứng khoán thành thị trường mở và thị trường đàm phán,thị trường giao ngay (Spot Markets) và thị trường kỳ hạn (Future Markets). Việc phân loại Thị trường chứng khoán sẽ giúp phân tích cụ thể hơn vai trò của Thị trường chứng khoán.
1.2. Các chủ thể tham gia Thị trường chứng khoán
1.2.1. Chủ thể phát hành (chủ thể đi vay)
Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Thuộc loại này có: Chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và các công ty cổ phần. Trong số đó chủ yếu là chính phủ và các công ty cổ phần.
Đối với Nhà nước, toàn bộ các khoản chi tiêu lớn đều trông chờ vào các khoản thu có hạn của Ngân sách Nhà nước (chủ yếu là các loại thuế) nhưng Ngân sách không đủ chi . Để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thiếu hụt ngân sách quốc gia, Chính phủ huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Các Chính phủ thường giao cho Bộ Tài chính (hay Bộ Ngân khố, hay Kho bạc Nhà nước) phát hành trái phiếu Chính phủ. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trả nợ các loại trái phiếu này. Các loại trái phiếu trung và dài hạn trở thành nguồn cung cấp chứng khoán trên Thị trường chứng khoán. Ngoài ra, nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, NHTƯ (theo sự uỷ nhiệm của Bộ Tài chính) thường phát hành loại trái phiếu ngắn hạn (còn gọi là tín phiếu Kho bạc hay hối phiếu Kho bạc) để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (Open Market). Khi NHTƯ thấy cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông về thì NHTƯ bán tín phiếu ra, ngược lại mua tín phiếu về. Số tín phiếu này thường được giao dịch trên thị trường tiền tệ.
Sau Nhà nước, loại chủ thể thứ hai cũng có nhu cầu rất lớn và thường xuyên về vốn tiền tệ đó là các doanh nghiệp trong đó công ty cổ phần là loại hình có liên quan nhiều nhất tới hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Công ty cổ phần sản sinh ra cổ phiếu và gắn chặt với Thị trường chứng khoán như hình với bóng. Đây là công ty mà số vốn là sở hữu chung của nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần, do đó vốn tự có của công ty cổ phần là vốn cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông đồng thời là chủ sở hữu một phần doanh nghiệp tương đương với tỷ lệ vốn góp. Công ty cổ phần hoàn toàn tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.2. Chủ thể đầu tư (chủ thể cho vay)
Đầu tư chứng khoán chỉ việc bỏ vốn tiền tệ ra mua các chứng khoán để kiếm lời. Việc kiếm lời trong đầu tư chứng khoán có thể là từ thu nhập cổ tức, trái tức, nhưng cũng có thể là từ chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem lại. Mục tiêu của đầu tư chứng khoán là nhằm kiếm lời từ các nguồn thu nhập nêu trên.
Chủ thể đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào Thị trường chứng khoán bằng cách thực sự mua các chứng khoán đang được phát hành trên Thị trường chứng khoán nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Người đầu tư dù được gọi là đã tham gia vào Thị trường chứng khoán cũng không có mặt và không có quan hệ nào với Sở giao dịch. Các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán sẽ phục vụ cho các nhà đầu tư. Họ đóng vai trò có khi là mua, lúc khác là bán, hay có vẻ như đồng thời làm chuyện đó cho người đầu tư. Hai người đầu tư mua và bán dù có ngồi sát cạnh nhau cũng cần tuân theo quy định thông qua trung gian môi giới như vậy để trao đổi tiền và hàng.
Mọi thành phần trong xã hội đều là chủ thể cho vay. Tuy nhiên có thành phần chỉ thỉnh thoảng mới cho vay, nhiều thành phần khác xem việc cho vay là công việc hàng ngày của họ. Có thể phân chủ thể cho vay (hay đầu tư) thành hai loại:
+ Các nhà đầu tư cá nhân
+ Các tổ chức đầu tư: các quỹ học bổng, quỹ tương hỗ, các công ty bảo hiểm, các NHTM, các công ty đầu tư quốc gia, các quỹ tài chính công, các quỹ bảo hiểm xã hội, các quỹ cứu trợ.
1.2.3. Chủ thể trung gian chứng khoán
Trung gian là người đưa đường dẫn lối để hai bên gặp nhau. Không phải nhà kinh doanh nào cũng có thể gặp ngay được những đối tượng cần mua chứng khoán để cả hai cùng thực hiện việc mua bán. Cũng như không phải bất kỳ người dân nào muốn đầu tư vào chứng khoán cũng có thể nhanh chóng đủ hiểu biết, đủ thông tin để tìm được cho mình nơi mua loại chứng khoán hợp túi tiền, có mức lãi suất và thời gian đáo hạn (nếu là trái phiếu) đúng ý muốn.Do những hạn chế này mà xuất hiệ...
Download Đề án Thị trường chứng khoán trước ngưỡng cửa hội nhập miễn phí
* Kinh doanh chứng khoán
Đây là nghiệp vụ mua bán chứng khoán cho chính mình và tự gánh chịu rủi ro của các nhà trung gian chứng khoán (giống những nhà đầu tư). Với vai trò kinh doanh chứng khoán, các nhà trung gian chứng khoán (các thương gia chứng khoán) là một thành viên quan trọng của Thị trường chứng khoán, có tác dụng làm cho hoạt động của Thị trường chứng khoán đều đặn, không bị gián đoạn và sôi động. Tuy nhiên vì các thương gia chứng khoán thực hiện việc giao dịch kinh doanh chứng khoán cho chính mình bằng cách kiếm lời qua chênh lệch giá, do đó, có thể chính họ lại là tác nhân tạo nên sự biến động giá chứng khoán một cách giả tạo thông qua hành động đầu cơ. Vì vậy, ở trên Thị trường chứng khoán, những thương gia chứng khoán (dealers) không chỉ đơn thuần có vai trò kinh doanh chứng khoán mà còn phải có nghĩa vụ kiểm soát sự mất cân đối thị trường, từ đó duy trì tính ổn định trên thị trường. Một công ty chứng khoán hành nghề kinh doanh khi họ đóng vai trò là chủ nhân (principal) của lượng chứng khoán giao dịch, nghĩa là khi họ mua hay bán bằng chính tài khoản (hay tồn kho)của họ. Thuật ngữ chuyên ngành gọi hoạt động kinh doanh chứng khoán này là “giao dịch có vị thế” hay có sở hữu (position trading).Giao dịch có vị thế của một công ty có vị thế của một công ty chứng khoán có thể được hiểu là công ty đang trong “tư thế kiểm soát” lượng chứng khoán đang giao dịch. Nhằm mục đích duy trì một thị trường trung thực và ổn định, các công ty thành viên có chức năng kinh doanh không được giao dịch vượt quá giá trị tài sản mà họ đang sở hữu.Trong Thị trường chứng khoán điều tối kỵ là thủ thuật chứng khoán điều tối kỵ là thủ thuật giao dịch để làm giá hay các động tác nhằm đánh lừa quần chúng đầu tư. Luật lệ chứng khoán luôn đặt vấn đề này thành ưu tiên hàng đầu cần được quan tâm chu đáo. Ở Mỹ, UB chứng khoán quốc gia quy định: người thương gia chứng khoán phải dành 60% giao dịch của mình cho hoạt động có tính chất ổn định thị trường, tức là chỉ được mua vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang có xu hướng tăng. Nói cách khác, họ là tác nhân giúp tăng cầu khi giá hạ và tăng cung khi giá tăng để ổn định giá cả thị trường.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
ộng vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.+ Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết hỗ trợ lẫn nhau.Về bản chất đây là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp vì chỉ có tại thị trường này vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
*Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo hai cách sau:
Cách thứ nhất, tổ chức thành các Sở giao dịch (Stock Exchange). Tại đây ngưòi mua và người bán (hay đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán tập trung tiêu biểu được biết đến là Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn, Sở giao dịch chứng khoán Mỹ, Sở giao dịch chứng khoán Pari.
Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung ,thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC: Over - The - Counter Market) là thị trường của các nhà buôn , những người tạo thị trường (Market Makers). Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua, bán với các nhà buôn khác cũng như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với thị trường Sở giao dịch.
Ngoài hai thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Ngoài ra người ta còn phân loại thị trường chứng khoán thành thị trường mở và thị trường đàm phán,thị trường giao ngay (Spot Markets) và thị trường kỳ hạn (Future Markets). Việc phân loại Thị trường chứng khoán sẽ giúp phân tích cụ thể hơn vai trò của Thị trường chứng khoán.
1.2. Các chủ thể tham gia Thị trường chứng khoán
1.2.1. Chủ thể phát hành (chủ thể đi vay)
Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Thuộc loại này có: Chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và các công ty cổ phần. Trong số đó chủ yếu là chính phủ và các công ty cổ phần.
Đối với Nhà nước, toàn bộ các khoản chi tiêu lớn đều trông chờ vào các khoản thu có hạn của Ngân sách Nhà nước (chủ yếu là các loại thuế) nhưng Ngân sách không đủ chi . Để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thiếu hụt ngân sách quốc gia, Chính phủ huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Các Chính phủ thường giao cho Bộ Tài chính (hay Bộ Ngân khố, hay Kho bạc Nhà nước) phát hành trái phiếu Chính phủ. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trả nợ các loại trái phiếu này. Các loại trái phiếu trung và dài hạn trở thành nguồn cung cấp chứng khoán trên Thị trường chứng khoán. Ngoài ra, nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, NHTƯ (theo sự uỷ nhiệm của Bộ Tài chính) thường phát hành loại trái phiếu ngắn hạn (còn gọi là tín phiếu Kho bạc hay hối phiếu Kho bạc) để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (Open Market). Khi NHTƯ thấy cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông về thì NHTƯ bán tín phiếu ra, ngược lại mua tín phiếu về. Số tín phiếu này thường được giao dịch trên thị trường tiền tệ.
Sau Nhà nước, loại chủ thể thứ hai cũng có nhu cầu rất lớn và thường xuyên về vốn tiền tệ đó là các doanh nghiệp trong đó công ty cổ phần là loại hình có liên quan nhiều nhất tới hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Công ty cổ phần sản sinh ra cổ phiếu và gắn chặt với Thị trường chứng khoán như hình với bóng. Đây là công ty mà số vốn là sở hữu chung của nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần, do đó vốn tự có của công ty cổ phần là vốn cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông đồng thời là chủ sở hữu một phần doanh nghiệp tương đương với tỷ lệ vốn góp. Công ty cổ phần hoàn toàn tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.2. Chủ thể đầu tư (chủ thể cho vay)
Đầu tư chứng khoán chỉ việc bỏ vốn tiền tệ ra mua các chứng khoán để kiếm lời. Việc kiếm lời trong đầu tư chứng khoán có thể là từ thu nhập cổ tức, trái tức, nhưng cũng có thể là từ chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem lại. Mục tiêu của đầu tư chứng khoán là nhằm kiếm lời từ các nguồn thu nhập nêu trên.
Chủ thể đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào Thị trường chứng khoán bằng cách thực sự mua các chứng khoán đang được phát hành trên Thị trường chứng khoán nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Người đầu tư dù được gọi là đã tham gia vào Thị trường chứng khoán cũng không có mặt và không có quan hệ nào với Sở giao dịch. Các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán sẽ phục vụ cho các nhà đầu tư. Họ đóng vai trò có khi là mua, lúc khác là bán, hay có vẻ như đồng thời làm chuyện đó cho người đầu tư. Hai người đầu tư mua và bán dù có ngồi sát cạnh nhau cũng cần tuân theo quy định thông qua trung gian môi giới như vậy để trao đổi tiền và hàng.
Mọi thành phần trong xã hội đều là chủ thể cho vay. Tuy nhiên có thành phần chỉ thỉnh thoảng mới cho vay, nhiều thành phần khác xem việc cho vay là công việc hàng ngày của họ. Có thể phân chủ thể cho vay (hay đầu tư) thành hai loại:
+ Các nhà đầu tư cá nhân
+ Các tổ chức đầu tư: các quỹ học bổng, quỹ tương hỗ, các công ty bảo hiểm, các NHTM, các công ty đầu tư quốc gia, các quỹ tài chính công, các quỹ bảo hiểm xã hội, các quỹ cứu trợ.
1.2.3. Chủ thể trung gian chứng khoán
Trung gian là người đưa đường dẫn lối để hai bên gặp nhau. Không phải nhà kinh doanh nào cũng có thể gặp ngay được những đối tượng cần mua chứng khoán để cả hai cùng thực hiện việc mua bán. Cũng như không phải bất kỳ người dân nào muốn đầu tư vào chứng khoán cũng có thể nhanh chóng đủ hiểu biết, đủ thông tin để tìm được cho mình nơi mua loại chứng khoán hợp túi tiền, có mức lãi suất và thời gian đáo hạn (nếu là trái phiếu) đúng ý muốn.Do những hạn chế này mà xuất hiệ...