Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp
Lời mở đầu

Đối với nền kinh tế Việt Nam, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Do đó, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước. Nghị quyết Trung ương 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã đề ra những nội dung chủ đạo của việc sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước chỉ còn tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh. Để doanh nghiệp nhà nước thực hiện được nhiệm vụ này, cần tăng cường giám sát tài chính doanh nghiệp, trong đó, giám sát việc sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là rất quan trọng. Trong điều kiện hiện nay vốn ngân sách có giới hạn, Nhà nước càng cần nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn.
Cục Tài chính doanh nghiệp là cơ quan được Nhà nước giao thống nhất quản lý Nhà nước về tài chính doanh nghiệp trong cả nước, đồng thời thực hiện vai trò chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Cục là quản lý vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Trong những năm vừa qua, Cục Tài chính doanh nghiệp đã ban hành các chính sách quản lý vốn nhà nước tương đối có hệ thống. Nhưng nội dung các chính sách này còn một số điểm chưa đầy đủ, hợp lý và chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy, việc đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là rất cần thiết hiện nay.
Từ sự cấp thiết đó, tui xin chọn đề tài: “Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Trong luận văn này, tui chỉ đề cập đến công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Luận văn được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp.
tui xin chân thành Thank thầy giáo PGS. TS. Vương Trọng Nghĩa và các cán bộ Cục Tài chính doanh nghiệp- Bộ Tài chính đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tui hoàn thành luận văn này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Diệu Hằng



Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước


I. Doanh nghiệp nhà nước
1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước
Trong nền kinh tế, có hai hình thức sở hữu cơ bản về vốn và tài sản là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (bao gồm sở hữu của cá nhân và sở hữu của tập thể các cá nhân). Từ đó hình thành hai khu vực kinh tế là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Các đơn vị kinh doanh của khu vực kinh tế nhà nước được gọi là các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân gọi là doanh nghiệp tư nhân.
Tìm hiểu về doanh nghiệp nhà nước, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng rất phức tạp với nhiều cách hiểu khác nhau và nhiều tiêu chí xác định khác nhau. Trên thế giới, có rất nhiều cách quan niệm và doanh nghiệp nhà nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm vụ sự nghiệp (cảnh sát, chữa cháy, vệ sinh công cộng, y tế, giáo dục...) Có người lại phân biệt doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân bằng hai tiêu chí chủ yếu là công dân là những người chủ công nghiệp của nhà nước chứ không chỉ là khách hàng; về trình độ thương mại, doanh nghiệp nhà nước phải có toàn quyền tự chủ về quản lý. Cũng có ý kiến đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá nhân? Từ đó quan niệm rằng: doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân thành hai loại: Loại một là các xí nghiệp, tổ chức sản xuất chỉ sản xuất ra những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính. Loại hai là các xí nghiệp công cộng. Loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung. Sản phẩm của nó thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.
ở nước ta, theo Luật Doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh nghiệp khác như:
- Chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản xuất, cung ứng, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
- Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống nền kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về quản lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp nhà nước có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước có địa vị pháp lý để đảm bảo độc lập và tự chủ, đồng thời cũng hạn chế phần trách nhiệm về tài sản của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước chịu sự chi phối và tác động của môi trường kinh tế xã hội. Để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, Nhà nước cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định như vấn đề về tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, bảo hộ sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh...
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp nhà nước do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn được thành lập để thực hiện các hoạt động công ích (thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh nghiệp khác không phải do Nhà nước thành lập mà chỉ được Nhà nước cho phép thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh. Mục tiêu hoạt động duy nhất của các loại hình doanh nghiệp này là lợi nhuận.
- Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước tổ chức quản lý. Đó là tổ chức kinh tế của nhà nước, do đó doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quản lý của Nhà nước. Nhà nước tổ chức bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và bộ máy quản lý từng doanh nghiệp nói riêng; Nhà nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp...
- Tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn để thành lập nên nó thuộc sở hữu Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên số tài sản của Nhà nước giao cho. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở hữu với tài sản kinh doanh của họ.
2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
Cách phân loại chủ yếu đối với doanh nghiệp nhà nước là căn cứ vào chức năng hoạt động của doanh nghiệp. Theo cách phân loại này, doanh nghiệp nhà nước được phân làm hai loại:
- Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh: Đó là những doanh nghiệp hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích: Đó là những doanh nghiệp nhà nước mà toàn bộ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp đó thực hiện theo kế hoạch chính sách nhà nước hay trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Lợi nhuận không phải là mục đích hàng đầu của loại hình doanh nghiệp này.
3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức doanh nghiệp khác nhau như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau:

- Được hưởng lợi từ các khoản đầu tư của công ty vào các doanh nghiệp.
Việc thành lập Công ty đầu tư tài chính Nhà nước có ưu điểm:
- Góp phần vào quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước và quan trọng nhất là tách riêng chức năng quản lý nhà nước và chức năng thay mặt chủ sở hữu đối với vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước hiện đang do một cơ quan quản lý nhà nước thực hiện (Bộ Tài chính).
- Chấm dứt sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy đầy đủ quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh và quản lý tài chính.
- Xoá bỏ sự bao cấp về vốn của Nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước thông qua việc cấp bổ sung vốn lưu động (cấp không hoàn lại) để chuyển sang hình thức đầu tư tài chính (kinh doanh vốn), qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.
- Thay đổi cách quản lý vốn nhà nước từ cách thức quản lý kiểu hành chính sang cách kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường thông qua công ty đầu tư tài chính.
- Thông qua việc đầu tư vốn nhà nước vào các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong từng vùng, từng khu vực kinh tế một cách bền vững.
2.2. Hoàn thiện cơ chế đầu tư vốn
Bất cứ doanh nghiệp nhà nước nào khi thành lập phải có vốn điều lệ. Về nguyên tắc, số vốn theo điều lệ phải lớn hơn hay bằng tổng mức vốn pháp định mà Nhà nước quy định cho các ngành nghề. Vì thế, ngay khi có quyết định thành lập, doanh nghiệp nhà nước phải được cấp vốn điều lệ theo đúng điều lệ thành lập của doanh nghiệp. Cần có quy định thêm trách nhiệm của thay mặt chủ sở hữu (người quyết định thành lập doanh nghiệp) phải cấp đủ số vốn đã cam kết trong Điều lệ doanh nghiệp. Trường hợp không bổ sung đủ vốn theo cam kết thì tuỳ theo tình hình cụ thể mà có hướng xử lý thích hợp:
-Chuyển thành nợ phải thu của doanh nghiệp đối với thay mặt chủ sở hữu
-Điều chỉnh giảm vốn điều lệ nếu sau một thời hạn 5 năm mà thay mặt chủ sở hữu vẫn không cấp đủ vốn. Trường hợp nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ hơn 40% mức vốn pháp định liên tục trong 6 tháng thì phải tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Vốn cấp có thể bằng tiền, bằng quyền sử dụng đất, bằng các tài sản hữu hình, vô hình khác được đánh giá theo thời giá nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp nhà nước có thể sản xuất kinh doanh bình thường, cạnh tranh được trên thị trường. Trong quá trình kinh doanh, nếu thiếu vốn, doanh nghiệp nhà nước phải tự huy động trên thị trường, Nhà nước không cấp thêm.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, doanh nghiệp nhà nước có thể được cấp thêm vốn để thực hiện thêm một số chức năng được giao bổ sung. Khi có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nếu quỹ đầu tư phát triển không đủ sức bù đắp, doanh nghiệp nhà nước được quyền dùng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư (phải có phương án khả thi và được cơ quan tài chính duyệt). Trong chừng mực nhất định, nếu lợi nhuận để lại không đủ thì Nhà nước sẽ cấp thêm (chỉ một lần khi thực hiện dự án). Điều kiện, tiêu chuẩn cấp vốn bổ sung cần được thống nhất, có thể theo hướng: Doanh nghiệp nộp thuế thu nhập năm sau cao hơn năm trước, doanh nghiệp có dự án có tác động thúc đẩy kinh tế vùng phát triển.
Khi được cấp vốn điều lệ hay được bổ sung vốn điều lệ, doanh nghiệp nhà nước phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.3. Thống nhất vấn đề sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước khi huy động vốn.
Sau khi sử dụng hết số nguồn vốn chủ sở hữu, khi nhu cầu vốn tăng, doanh nghiệp nhà nước được phép huy động, tận dụng các nguồn vốn bên ngoài theo nguyên tắc có hoàn trả dưới hình thức tín dụng hay chiếm dụng hợp pháp. Điều đó có nghĩa là khi doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn thì có thể vay vốn của ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, cũng có thể vay vốn dưới dạng phát hành trái phiếu công ty trong phạm vi nhu cầu vốn thiếu cần thiết cho kinh doanh, không được phép vay nhằm mục đích đáo nợ. Lãi suất tiền vay được xác định theo nguyên tắc thoả thuận giữa người vay và người cho vay và được trừ vào thu nhập trước thuế. Xoá bỏ quy định cho phép doanh nghiệp nhà nước huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, đảm bảo sở hữu nhà nước của doanh nghiệp.
2.4. Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước
Vấn đề mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước gắn bó chặt chẽ với việc tách bạch quyền sở hữu với quyền quản trị kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tách bạch được hai quyền này thì quyền tự chủ của doanh nghiệp sẽ được mở rộng hơn. Vì thể cần tăng cường áp dụng mô hình Hội đồng quản trị, thuê giám đốc điều hành và trả lương dựa trên hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với mô hình này, doanh nghiệp có quyền chủ động hơn:
Doanh nghiệp được quyết định việc đầu tư của mình. Các dự án có giá trị bằng hay lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp do thay mặt chủ sở hữu, tức là Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) hay thay mặt chủ sở hữu (đối với doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị) quyết định. Các dự án có giá trị thấp hơn tỷ lệ quy định trên do doanh nghiệp quyết định, cụ thể là Giám đốc hay Tổng Giám đốc.
Tương tự, đối với vay vốn, thay mặt chủ sở hữu quyết định các dự án vay vốn có giá trị bằng hay lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp công bố tại thời điểm gần nhất. Tổng Giám đốc hay Giám đốc doanh nghiệp quyết định đối với dự án vay vốn có giá trị thấp hơn tỷ lệ quy định trên.
Việc cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý tài sản, xử lý tài sản tổn thất đều do doanh nghiệp tự quyết định. Để bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu, đối với trường hợp nhượng bán tài sản có giá trị bằng 50% tổng giá trị tài sản theo sổ sách phải được sự chấp nhận của thay mặt chủ sở hữu. Đối với trường hợp xử lý tài sản tổn thất, nên quy định trình tự, thời hạn xử lý để tránh thất thoát tài sản doanh nghiệp. Trường hợp tổn thất đặc biệt lớn do nguyên nhân bất khả kháng mà các khoản bù đắp (bảo hiểm, người gây thiệt hại, các khoản dự phòng...) cũng không giúp doanh nghiệp tự khắc phục được thì Nhà nước mới xem xét xử lý.
Doanh nghiệp có quyền điều hoà, phân phối nguồn vốn, quỹ trong phạm vi doanh nghiệp nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trên cơ sở tôn trọng các quy định của pháp luật. Khi đã giao vốn, Nhà nước không thu hồi lại vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian doanh nghiệp hoạt động nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh và bảo toàn vốn. Trường hợp doanh nghiệp nhà nước thu hẹp chức năng nên thừa vốn, doanh nghiệp không có hướng đầu tư hiệu quả thì Nhà nước sẽ thu lại một phần vốn tương đương với số vốn thừa.
Trên cơ sở xây dựng quy chế thưởng khuyến khích người quản lý, điều hành doanh nghiệp gắn với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện bỏ qui định khống chế các khoản chi giao dịch, tiếp khách... Doanh nghiệp tự quyết định dựa trên nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị duyệt định mức, công bố công khai; Giám đốc quyết định mức chi cụ thể. Việc bỏ qui định mức khống chế chi này cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị và Giám đốc doanh nghiệp, đồng thời tăng cường giám sát của người lao động.
2.5. Hoàn thiện chính sách phân phối và sử dụng các quỹ
Nhà nước là chủ sở hữu của doanh nghiệp nên phần lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp hoàn toàn thuộc về Nhà nước. Nhà nước có toàn quyền sử dụng khoản này. Do vậy không cần thiết phải có khoản thu sử dụng vốn ngân sách nữa. Để đảm bảo hài hoà ba lợi ích của chủ sở hữu, doanh nghiệp và người lao động, khuyến khích người quản lý điều hành doanh nghiệp gắn với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần sửa đổi chế độ phân phối lợi nhuận sau thuế theo hướng doanh nghiệp làm ra càng nhiều lợi nhuận thì mức trích lập các quỹ của doanh nghiệp càng tăng, ngược lại doanh nghiệp làm ra ít lợi nhuận thì mức trích lập các quỹ cũng phải giảm xuống.
Phần lợi nhuận sau thuế sau khi bù các khoản lỗ chưa được trừ vào lợi nhuận trước thuế được trích quỹ khen thưởng, phúc lợi. Mức trích hai quỹ này căn cứ vào lợi nhuận của doanh nghiệp. Thực hiện lập quỹ Giám đốc nhằm thưởng cho Hội đồng quản trị và Giám đốc doanh nghiệp có thành tích trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, phù hợp với chế độ tài chính của doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Giám đốc doanh nghiệp được nhận tiền thưởng khi có thành tích trong quản lý, điều hành doanh nghiệp). Phần còn lại dùng để bổ sung vào vốn của doanh nghiệp để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị... Nếu doanh nghiệp không có nhu cầu hay doanh nghiệp sẽ chuyển đổi sở hữu thì Nhà nước thu vào ngân sách hay chuyển vốn cho những doanh nghiệp cần được đầu tư.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Đổi Mới Công Tác Giáo Dục Truyền Thống Cho Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ Ở Đơn Vị Cơ Sở Các Binh Đoàn Chủ Lực Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Hiện Nay Văn hóa, Xã hội 0
D Quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở Tiên Thanh, thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục Luận văn Sư phạm 0
D Quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở Trường THCS Nam Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục Luận văn Sư phạm 0
T Nâng cao hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
S Đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng và rút ngắn thời gian sản xuất trong sản phẩm gốm Bát Tràng Luận văn Kinh tế 2
K Giải pháp về quản lý tài chính công trong tiến trình đổi mới và thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia Luận văn Kinh tế 1
D Đổi mới cơ chế quản lý tiền lương trong công ty cổ phần may Đáp Cầu Luận văn Kinh tế 0
B Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và nội dung đường lối đổi mới của Đảng - Những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới 1986-1991 Khoa học Tự nhiên 6
V Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở nước ta trong thời gia tới Kiến trúc, xây dựng 0
B Những giải pháp chủ yếu huy động vốn đổi mới thiết bị công nghệ ở Công ty cổ phần dệt 10/10 Công nghệ thông tin 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top