Download 3 vụ việc liên quan đến giao dịch dân sự có sự lừa dối, đe dọa, và có tranh chấp miễn phí
Công ty TNHH SX thương mại, xây dựng dịch vụ Hoàng Long ( gọi tắt là công ty Hoàng Long), địa chỉ tại 282 Nam Kỳ, khởi nghĩa, phường 8 quận 3 thành phố Hồ Chí Minh. Có vay nợ 2 ngân hàng:
– Công ty Hoàng Long vay ngân hàng M số tiền là 483.000 USD. Ngày đến hạn trả nợ là 30/04/2005, hợp đồng tín dụng trên được bảo đảm bằng quyền sử dụng 5 lô đất có tổng diện tích là 50.000 m2, tài sản gắn trên đất là cụm nhà kho A1, A2, A3 thế chấp tài sản đã được công chứng ngày 24-6-1999 tại TP Hồ Chí Minh.
– Công ty Hoàng Long vay ngân hàng N số tiền là 1.543.242 USD. Ngày đến hạn trả nợ là 30-06-2005. Hợp đồng tín dụng trên được bảo đảm bằng quyền sử dụng 5 lô đất có tổng diện tích là 50.000 m2, tài sản gắn trên đất là cụm nhà kho A1, A2, A3 thế chấp tài sản đã được công chứng ngày 23-01-2000 tại TP HCM.
– Ngoài ra, công ty Hoàng Long còn vay của công ty TNHH Thiên Bình 500triệu đồng, ngày đến hạn là 20-01-2006. Hợp đồng vay được bảo đảm bằng quyền sử dụng 5 lô đất có tổng diện tích 50.000 m2, tài sản gắn trên đất là cụm nhà kho A1, A2, A3 chấp được công chứng ngày 22-06-1999 tại TP HCM. Đến thời hạn trả nợ cho ngân hàng M, công ty Hoàng Long không thực hiện được nghĩa vụ, ngân hàng M đã kiện công ty Hoàng Long ra toà nhằm phát mãi tài sản trừ nợ cho ngân hàng.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
A/ LỜI MỞ ĐẦUTrong những năm qua,cùng với việc phát triểnkinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,những qui định về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh các giao dịch dân sự, góp phần thúc đẩy pháy triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân …Chế định về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự được coi là một chế định quan trọng bởi nó là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng nói chung, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế quốc tế thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem như một công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình. Một nền kinh tế năng động luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro và việc nhận biết chúng, khắc phục và ngăn chặn những rủi ro ngay từ chính những giao dịch được kí kết là một cách làm khôn ngoan và chủ động mà các nhà làm luật đã dự phòng thông qua việc thiết kế qui định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Các biện pháp này được qui định ngay trong mục 5, Chương 7, phần thứ 3 của BLDS 2005 và được cụ thể hóa trong Nghị định 163/ 2006/NĐ- CP ngày 29/ 12/ 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Đó là, biện pháp cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, kí cược, kí quĩ, bảo lãnh, tín chấp- là các biện pháp dự phòng cho các bên chủ thể thỏa thuận để bảo đảm lợi ích của bên có quyền bằng cách cho phép bên có quyền được xử lí những tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ, để khấu trừ giá trị nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ đó bị vi phạm. Với mục đích nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ đúng và đầy đủ của bên có nghĩa vụ, giúp bên có quyền luôn ở thế chủ động trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong các giao dịch đã kí.
Thực tế đời sống cho thấy, đã có không ít những cuộc tranh chấp diễn ra giữa các bên có quyền và bên có nghĩa vụ về việc một tài sản dùng để thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự. Đây là, vấn đề nhức nhối của những người làm công tác xét xử cũng như của những người trong cuộc. Sau đây, là ba vụ việc xảy ra trên thực tế mà nhóm D2-2 đã tìm hiểu được:
B/ 03 VỤ VIỆC LIÊN QUAN ĐẾN GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ SỰ LỪA DỐI, ĐE DỌA, VÀ CÓ TRANH CHẤP
I/ Vụ việc thứ nhất
1. Tóm tắt vụ án và giải quyết của Toà án.
Vợ chồng ông T ngụ tại xã Hoà Hiệp Nam, huyện Đông Hoà, tỉnh Phú Yên. Tháng 7 và tháng 10 năm 2005 vợ chống ông T ký hợp đồng tín dụng vay ngân hàng X với số tiền là 140 triệu đồng. Tài sản thế chấp là một ngôi nhà và một thửa đất 300 m2. Ngân hàng X có đăng ký thế chấp tại Uỷ ban nhân dân xã Hiệp Hoà Nam theo thông tư liên tịch số 03 ngày 04 – 07 – 2007 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài Nguyên và Môi trường. Đến thời hạn trả nợ, vợ chồng ông T không trả được nợ cho ngân hàng X, ngân hàng X đã kiện họ ra toà. Theo bản án ngày 31 – 03 năm 2008 của TAND TP Tuy Hoà, vợ chồng ông T phải trả nợ cho ngân hàng X cả vốn lẫn lãi là 180 triệu đồng.
Sau đó, thi hành án huyện Đông Hoà đã định giá, kê biên căn nhà để phát mãi trừ nợ. Lúc này bên ngân hàng X mới biết rằng phần đất 300m2 được ông T đem gán nợ cho một người khác từ trước đó. Theo bản án dân sự ngày 24 – 10 – 2005 của TAND huyện Đông Hoà, vợ chồng ông T phải trả cho người này 80 triệu đồng. Ngày 31 – 01 – 2007 ông T viết đơn tự nguyện giao đất để khấu trừ thi hành án và được chấp nhận. Theo ngân hàng X, cơ quan thi hành án, đã làm sai quy định trong việc tự ý xử lý mảnh đất trên. Ngân hàng đã viện khoản 4 điều 41, pháp lệnh thi hành án dân sự để bảo vệ quan điểm của mình: “đó là khi kê biên tài sản đang được cầm cố, thế chấp thì chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho người nhận cầm cố thế chấp biết”.
2. Một số nhận xét của nhóm:
Trong vụ án chúng tui thấy nổi bật 3 vấn đề sau:
– Một là: Trong vụ án này, một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ hay không? ( theo điều 324 BLDS 2005).
Tài sản được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ vay ở đây là một căn nhà và một thửa đất 300m2. Vợ chồng ông T đã dùng nhà và thửa đất này để thế chấp vay tiền ngân hàng X vào 2 đợt (tháng 7 và tháng 10 năm 2005) với tống số tiền là 140 triệu đồng. Nhưng trên thực tế thì vợ chồng ông T đã giao đất để khấu trừ thi hành án ( bản án ngày 24 – 10 – 2005) là được chấp nhận. Theo khoản 2 điều 324 BLDS 2005 thì trong trường hợp một tài sản được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì phải thông báo bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải được lâp thành văn bản. Như vậy, ở đây có thể có 2 trường hợp xảy ra:
+) Trường hợp 1: Nếu vợ chồng ông T đã dùng chính ngôi nhà và thửa đất 300m2 để thế chấp hợp đồng vay với 1 người là 80 triệu đồng. (thế chấp để vay trước khi thế châp vay ngân hàng X) thì buộc ông T phải cho ngân hàng X biết tài sản thế chấp của gia đình với ngân hàng X cũng đang được thế chấp để vay một khoản đến khác.
+) Trường hợp 2: Nếu trước đó khi vay người 80 triệu đồng, ông T không thế chấp gì cho người đó. Sau khi không thực hiện được nghĩa vụ, ông T (ngày 31-01-2007) viết đơn tự nguyện giao đất để khấu trừ thi hành án và được chấp thuận. Việc viết đơn tự nguyên vủa ông T có đúng hay không? Bởi theo khoản 4 Điều 349 BLDS 2005 thì : Quyền của bên thế chấp: “Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hoá lưu thông trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý”. Điều đó có nghĩa là, ông T muốn lấy nhà và đất 300m2 (đã thế chấp cho ngân hàng X) thì ông T phải được sự đồng ý từ phía ngân hàng X. Nhưng thực tế việc ông T lây đất khấu trừ 80 triệu đồng thì ngân hàng không biết ( mà pháp luật buộc ông T phải cho ngân hàng biết). Liệu việc tự nguyện viết đơn giao đất khấu trừ thi hành án ( bản án ngày 24-10-2005) của ông T có đúng pháp luật hay không?.
– Hai là: Sau khi cho ông T vay tiền là 140 triệu đồng , tài sản thế chấp là một ngôi nhà và một thửa đất 300m2 thì ngân hàng X đã có đăng kí thế chấp tại UBND xã Hoà Hiệp Nam. Như vậy, ngân hàng X cũng đã có đăng kí giao dịch bảo đảm mà theo thông tư liên tịch số 03 ngày 04-07-2003 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài Nguyên – Môi trường thì UBND xã cũng là những cơ quan đăng kí có thẩm quyền chứng thực vào hợp đồng thế chấp(nay đã mất hiệu lực). Nay thông tư liên tịch số 05 (có sửa đổi bổ sung) của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên – Môi trường lại yêu cầu: “ Hợp đồng thế chấp bảo lãnh quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã được ký kết trước ngày 28-07-2005 (ngày thông tư liên tịch số 05 có hiệu lực thi hành) mà vẫn còn th