chaykut3_0238
New Member
Download miễn phí Tiểu luận Ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
Hà Nội :
Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn 5 năm đạt 6,5 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 14,91%; kim ngạch xuất khẩu địa phương tăng bình quân 19,96%/năm. Thị trường xuất nhập khẩu ngày càng được ổn định và mở rộng. Một số thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu đã được hình thành như : EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN Cư cấu mặt hàng xuất khẩu có những chuyển biến tích cực, hàng công nghệ phẩm chiếm
tỷ trọng ngày càng lớn. Một số mặt hàng cỏ thị trường và kim ngạch xuất khẩu khá ổn định như: dệt may – gia giầy, điện - điện tử, nông – thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ Cơ cấu hàng nhập khẩu chuyển biến theo hướng nâng dần tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật tư phục vụ sản xuất, giảm tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-09-26-tieu_luan_anh_huong_cua_vung_kinh_te_trong_diem_bac_bo_doi_v.RWRF902ypa.swf /tai-lieu/tieu-luan-anh-huong-cua-vung-kinh-te-trong-diem-bac-bo-doi-voi-su-tang-truong-cua-nen-kinh-te-viet-nam-77817/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
Ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, Trung, Nam có điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nhịp điệu chung của cả nước, cung ứng cho cả nước nhiều sản phẩm và dịch vụ cần thiết, phát huy vai trò trung tâm về công nghiệp , dịch vụ thương mại, tài chính, khoa học-kỹ thuật, là cửa ngõ giao lưu quốc tế. Phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm phải kết hợp chặt, phục vụ và thúc đẩy sự phát triển các vùng khác và thúc đẩy sự phát triển các vùng và cả nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm mở rộng kinh doanh và đầu tư ra các vùng khác.
I/ Vị trí địa lý vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nằm ở phía đông bắc Đồng bằng sông Hồng và sườn đông nam vùng Đông Bắc Bắc Bộ, tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, có hải cảng lớn nhất miền Bắc nước ta là Hải Phòng, Cái Lân. Vì vậy có điều kiện quan hệ với các bộ phận lãnh thổ trên cánh cung Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Hồng Công, Đài Loan, úc, ... và theo các trục đường 18, trục đường 5 mở rộng liên hệ với các vùng kinh tế Đông Bắc đi sâu vào lục địa, vươn tới các vùng kinh tế Nam Trung Hoa như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, ... Phía Nam và Đồng bằng sông Hồng đến Bắc Trung Bộ.
II/. Về vị trí kinh tế- xã hội :
Là vùng có lịch sử hình thành đô thị sớm nhất nước ta như Hải Phòng, Hòn Gai, Hải Dương sản sinh ra thủ đô Hà Nội nên có sức hút mạnh mẽ các vùng lân cận.
- Là vùng có khả năng tiếp cận và tụ hội được nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên làm nguyên liệu, thực hiện công nghiệp hoá như nhiên liệu năng lượng, khoáng sản kim loại và phi kim loại, có nguồn nước mặt, nước ngầm phong phú, có biển rộng, giàu tài nguyên du lịch.
- Là vùng có nguồn lao động dồi dào, có chất lượng, bao gồm cả lao động kỹ thuật. Năm 1994 có 7,4 triệu dân số. Trong đó, thành thị là 2,2 triệu, chiếm 29,5% dân số, nông thôn là 5,2 triệu, chiếm 71,5% dân số. Lao động có trình độ phổ thông trung học trở lên chiếm 75% lao động, 91 vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, chiếm 27,3% lao động xã hội, 17 vạn người có trình độ đại học và 6.644 người có trình độ trên đại học, chiếm 72% tổng số cả nước.
- Là vùng có cơ sở hạ tầng đủ khả năng mở rộng và hiện đại hoá để liên hệ kịp thời, ổn định vùng sản xuất và tiêu thụ
- Là vùng đã có chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP của vùng, là vùng đã và đang củng cố, mở rộng các ngành kinh tế giữ vị trí chủ đạo và then chốt như điện, than, dầu khí, cơ khí chế tạo, vận tải biển, đường sắt, hàng không, ngân hàng, tài chính.
Tăng trưởng GDP năm 1994 đạt 303 USD ( Cả nước 213 USD), đứng sau vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Nam (556 USD ). Phấn đấu nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 11,2% ( thời kỳ 1991- 1994) lên 11,7% (thời kỳ 1995- 2000) và 14,2% (thời kỳ 2001- 2010). Trong đó:
+ Về tốc độ ( cùng các thời kỳ trên ): Công nghiệp từ 13,9% lên 16,2 và 16,7%
Xây dựng từ 18,9% lên 15,3 và 13,8%
Nông lâm từ 6,6% xuống 4,0 và 3,5%
Dịch vụ từ 10,5% lên 11,0 và 14,3%
+ Về cơ cấu ( cùng các năm 1994, 2000 và 2010):
Công nghiệp từ 20,4% lên 25,9% và 32,2%
Xây dựng từ 9,1% lên 11% và 10,6%
Dịch vụ từ 55,2% còn 53,1% và 53,5%
Nông lâm từ 15,3% xuống 10,0% và 3,7% cùng năm trên.
III. ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đối với sự tăng trưởng của nền Kinh tế Việt Nam.
Tác động đến nền công nghiệp.
a) Hà Nội.
Trong những năm 1991 đến 2000 GDP của Hà Nội tăng 2,99 lần, đạt tấc độ tăng binh quân 11,6 %/năm, cao hơn tấc độ tăng GDP của cả nước 1,5 lần. Năm 2000, GDP của Hà Nội chiếm 7,3% so với cả nước, khoảng 41% so với cả vùng đồng bằng sông Hồng và 65,47% so với vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc.
GDP bình quân đầu người năm 2000 đật khoảng 10,5 triệu đồng, bằng khoảng 2,29 vùng đồng bằng sông Hồng và 2,07 lần cả nước.
Nền Kinh tế phát triển ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 4,86 lần, giá trị nông nghiệp tăng 1,63 lần, kinh ngạch xuất khẩu địa phương tăng 4,77 lần. Đến hết năm 2000, Hà Nội có 382 dựn án đầu tư nước ngoài có hiệu lực hoạt động với tổng số vốn đăng ký 7,55 tỷ USD ( đứng thứ 2 cả nước ), vốn thực hiện ước khoảng 3,5 tỷ USD.
Ngân sách thu được trên địa bàn Hà Nội đạt khoảng 11.300 tỷ đồng. Cơ cấu ngành công nghiệp mở rộng từ 25,9% năm 1990 tăng lên 38,5% năm 2000, ngành dịch vụ từ 66% giảm xuống còn 58%, ngành nông – lâm nghiệp và thuỷ sản từ 8,1% giảm xuống còn 3,5%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ 0% (năm 1990) tăng lên 13,3% (năm 2000).
ở Hà Nội giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 17,13%/ năm, sản phẩm công nghiệp ngày càng phong phú. Ngoài 9 khu công nghiệp cũ, Hà Nội đã xây dựng thêm 5 khu công nghiệp tập trung, một số khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Năm 2000 Hà Nội có 256 doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh, trong đó có 163 doanh nghiệp quốc doanh trung ương, 15.363 doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Hà Nội là địa bàn tập trung công nghiệp cao nhất Bắc Bộ và đứng thứ 2 cả nước. Tỷ trọng GDP công nghiệp trong cơ cấu GDP thủ đô chiếm 38,5% và đang có chiều hướng tiếp tục gia tăng. Một số sản phẩm của Hà Nội có sức cạnh tranh và chiếm tỷ trọng cao trong cả nước: động cơ điện chiếm 83%, xe đạp chiếm 35%, máy chế biến gỗ chiếm 46,6%, đồ nhôm chiếm 74%, lắp ráp vi tính chiếm 47,6%, quạt máy các loại chiếm 73,9%…
b) Hải Phòng.
* Công nghiệp đóng tầu:
Đóng và sửa chữa tàu thuỷ trọng tải lớn trở thành ngành kinh doanh lớn nhất của
thành phố, mục tiêu đến năm 2005 đóng được tầu từ 30 đến 50 nghìn tấn. Trên cơ sở liên doanh với nước ngoài tiến tới đóng tầu 5 vạn tấn, sửa chữa tàu vận tải trên 8 vạn tấn, chế tạo động cơ tầu thuỷ cỡ 3.000 CV.
Đảm bảo đáp ứng các loại tầu công trình, tầu cao tốc, các chi tiết phụ tùng cho ngành đóng tầu Việt Nam đáp ứng: 25 – 30% nhu cầu đóng mới tầu biển của cả nước.
Sửa chữa tầu, sà lan… đáp ứng 80% nhu cầu của vùng Bắc Bộ về sửa chữa tầu sông, 30% nhu cầu cả nước về nhu cầu sửa chữa tầu biển.
* Xi măng:Đến năm 2005 đạt 3,5 triệu tấn, đến năm 2010 đạt 4,5 triệu tấn.
* Sản xuất thép đạt 0,8 – 1,0 triệu tấn vào năm 2005, đạt 1,5 triệu tấn vào năm 2010 theo hướng đa dạng hoá sản phẩm gồm: thép thanh, thép cuộn, thép ống, thép hình phi tiêu chuẩn, chi tiết máy, đúc phôi thép.
* Hoá chất nhựa: tiếp tục đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất các sản phẩm trong nước thay thế hàng nhập khẩu; sơn, ắc quy, sản phẩm nhựa cho tiêu dùng, xây dựng. Tiếp tục phát triển các sản phẩm mới (LAB). Chuẩn bị các điều kiện để phát triển các sản phẩm phân DAP, hoá dầu.
Bên cạnh đó là việc đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ ph