[email protected]
New Member
Download Báo cáo Tổng kết chương trình kết nối mạng giáo dục miễn phí
Tại thành phố Đà Nẵng mọi việc tưởng chừng thuận lợi. Song Viettel đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Những xã miền núi, vùng sâu, vùng xa chiếm gần 45% diện tích của thành phố Đà Nẵng, nhưng gần như trắng về hạ tầng viễn thông. Với địa hình đồi núi hiểm trở, việc thi công, lắp đặt các thiết bị viễn thông gặp rất nhiều khó khăn. Để hoàn thành nhiều tuyến cáp, các cán bộ kỹ thuật phải đi bộ hàng chục cây số đường rừng núi. 70,5 km cáp quang và 182 km cáp đồng, 8 node mạng mới đã được lắp đặt để đưa Internet đến 182 trường và cơ sở giáo dục của thành phố Đà Nẵng. Đối với các trường trên địa bàn huyện Hòa Vang, cơ sở hạ tầng rất thiếu thốn và sơ sài, Viettel Đà Nẵng đã thực hiện lắp mới 7 trạm phát sóng tại các xã Hòa Tiến, Hòa Nhơn, Hòa Bắc , kéo mới 46km cáp quang và đưa Internet tới 47 điểm trường của huyện Hòa Vang.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
BÁO CÁO TỔNG KẾTCHƯƠNG TRÌNH KẾT NỐI MẠNG GIÁO DỤC
Mở đầu - hiện trạng
Việt Nam bắt đầu mở kết nối Internet từ tháng 12/1997. Kế từ đó, Internet đã xâm nhập và có ảnh hưởng mạnh mẽ mọi ngành kinh tế, văn hóa, xã hội và đặc biệt đối với giáo dục.
Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17 tháng 10 năm 2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã ghi:
“4- Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo”.
a) Hiện trạng kết nối Internet của ngành giáo dục tính đến 8/2008
Ngày 4/4/2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Bộ Bưu Chính – Viễn Thông ký văn bản ghi nhớ về việc triển khai mạng giáo dục và kết nối Internet vào trường học. Mục tiêu phấn đấu là đến cuối năm 2004, 100% các trường THPT được kết nối Internet và đến cuối 2005, 50% trường THCS được kết nối Internet. Kết quả cho thấy, đến cuối năm 2004, chúng ta đã hoàn thành kết nối được 98% các trường THPT và chủ yếu lúc đó kết nối qua đường điện thoại (dial up) nên rất chậm và lúc đó công nghệ kết nối cũng chỉ là qua điện thoại. Đơn vị chủ lực và có công đầu trong triển khai này là Công ty VDC.
Cục Công nghệ thông tin (CNTT) đã thống kê: Tính đến tháng 7/2008, có 17.342 trường phổ thông chưa nối Internet trên tổng số 27.595 (trong đó có 556 trường không có điện lưới). Chiếm 62% số trường phổ thông chưa được kết nối Internet.
Qui mô các cơ sở giáo dục và đào tạo (Thống kê năm học 2006-2007)
Các trường
Số lượng
Trường tiểu học
14.839
Trường phổ thông cơ sở
Loại trường liên cấp 1+2 (từ lớp 1 đến lớp 9)
744
Trường trung học cơ sở
9.657
Trường trung học
Loại trường liên cấp 2+3 (từ lớp 6 đến lớp 12)
281
Trường trung học phổ thông
2.074
Tổng cộng
27.595
Trường mầm non
11.509
Trường TCCN
269
Trường cao đẳng
183
Trường đại học
139
Bảng tổng hợp hiện trạng kết nối Internet tính đến 7/2008
Loại đơn vị
Tiểu học
PTCS
THCS
THPT
Trung học
Phòng GD
Tổng số
Không có điện lưới
304
95
145
11
0
1
556
Chưa kết nối Internet
7737
377
3661
89
42
48
11954
Không thể nối cáp
2778
410
1519
97
27
1
4832
Tính theo tỉ lệ %
BẢNG TỶ LỆ %
Tiểu học
PTCS
THCS
THPT
Trung học
Phòng GD
Không có điện lưới
54.68
17.09
26.08
1.98
0.00
0.18
Chưa kết nối Internet
64.72
3.15
30.63
0.74
0.35
0.40
Không thể nối cáp
57.49
8.49
31.44
2.01
0.56
0.02
- 100% các trường đại học, cao đẳng đã nối mạng Internet bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhiều trường đại học có mạng nội bộ, có đường thuê riêng (leased line), có phòng truy cập Internet cho sinh viên và giáo viên, có trang thông tin điện tử.
- Các trường cao đẳng chủ yếu dùng đường ADSL.
- Các trường đại học trọng điểm tuy có kết nối đường thuê riêng (leased line) nhưng băng thông rất thấp, khoảng 512 Kbps đến 2 Mbps, do giá thành còn rất đắt.
- Nhiều Sở GD&ĐT như Hà Nội, Hoà Bình, TP. HCM, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hoà Bình,... đã xây dựng mạng nội bộ, kết nối tới các trường phổ thông, xây dựng trang thông tin điện tử của Sở. Nhìn chung, việc khai thác và sử dụng Internet còn hạn chế do cước phí truy nhập còn cao và nội dung thông tin cho giáo dục chưa nhiều.
- Có thể nói trong điều kiện vô cùng khó khăn, số lượng các trường nhiều, giá cước cao … tại thời điểm 2008, việc đạt mục tiêu kết nối Internet đến tất cả các trường học chỉ là ước mơ, dự kiến đến năm 2030 mới thực hiện được.
Kết quả triển khai kết nối mạng giáo dục, đưa Internet đến trường học do Viettel tài trợ
1. Triết lý
Đứng trước mục tiêu cao cả của ngành giáo dục, đứng trước khó khăn lớn của ngành giáo dục, Tập đoàn Viễn Thông Quân đội Viettel đã đưa ra triết lý: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của đất nước nên chúng tui không tiếc gì cả”.
2. Ký kết Bản ghi nhớ
Ngày 04/01/2008, Cục CNTT, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel đã kí kết bản ghi nhớ. Theo đó, hai bên phối hợp hoạt động nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục và đào tạo cũng như thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu của xã hội dựa trên năng lực và trách nhiệm của mỗi bên tham gia ký kết. Bản kí kết này như lật trang cho việc kết nối Internet vào nhà trường với qui mô và chất lượng mới: Kết nối Internet băng thông rộng tới tất cả các trường học, đặc biệt quan tâm việc kết nối Internet đến các trường học vùng sâu, vùng xa, miền núi và hải đảo.
Ngày 25/9/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel đã long trọng tổ chức Lễ Khởi công Mạng giáo dục, bao gồm hai phần chính: Kết nối Internet tới các trường và triển khai các các ứng dụng trên mạng. Chương trình đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, được Bộ Giáo dục và đào tạo, Cục CNTT - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân các tỉnh, các Sở giáo dục và đào tạo trên cả nước tích cực phối hợp, triển khai đồng bộ.
Theo thỏa thuận, Viettel cam kết triển khai:
- Tài trợ miễn phí kết nối Internet băng thông rộng ADSL vô thời hạn tới tất cả các trường tiểu học, trung học, mẫu giáo, mầm non, các trung tâm giáo dục cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, các phòng giáo dục và đào tạo (cấp huyện), các trường TCCN và dạy nghề. Tài trợ toàn bộ thiết bị kết nối Internet là modem ADSL, rải cáp… Trị giá qui đổi tượng trưng của việc tài trợ này là 330 tỉ/năm, chưa kể đầu tư ban đầu cho trang thiết bị và rải cáp.
- Kết nối kênh thuê riêng bằng đường cáp quang, tốc độ 4 Mbps miễn phí tới tất cả các Sở GDĐT, giảm cước nối quốc tế đường 256 Kbps. Như vậy các Sở chỉ phải trả chi phí 1,2 triệu đồng/tháng. (Giá tham khảo nối 1 Mbps trước đó: khoảng 25 triệu/tháng).
- Giảm 70% cước kết nối kênh thuê riêng bằng cáp quang tới các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.
- Với các trường vùng sâu, vùng xa, Viettel cam kết sẽ cung cấp miễn phí cả thiết bị lẫn cước kết nối hằng tháng bằng công nghệ qua sóng điện thoại di động. Với công nghệ GPRS, tốc độ có thể đạt 120 Kbps. Với công nghệ 3G chuẩn bị triển khai đầu 2009, tốc độ có thể đạt 1 Mbps. Có thể nói, nhờ chiến dịch này, các vùng sâu vùng xa sẽ khắc phục sự lạc hậu về công nghê thộng tin do khoảng cách đem lại, có điều kiện phát triển nhờ CNTT.
Theo thỏa thuận hợp tác giữa hai bên, tiến trình triển khai việc kết nối mạng giáo dục được lên kế hoạch dự kiến như sau:
- Ngay từ tháng 10/2008, Kết nối giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo tới các Sở Giáo dục v