loa4vitinh
New Member
Download Cải tổ luật hợp đồng và sự ra đời của Bộ Nguyên tắc Luật Hợp đồng Châu Á (PACL) miễn phí
Về nguyên tắc cơ bản của hợp đồng, quan điểm của GS Kanayama cho rằng quyền tự do
giao kết hợp đồng không có nghĩa là một bên (bên mạnh thế) có quyền bóc lột bên kia
(bên yếu thế) trong giao dịch. Mọi giao dịch mang tính chất bóc lột đều bị vô hiệu. Trên
nguyên tắc, các học giả từ quốc gia khác ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, điều khó giải
thích là làm sao biết một giao dịch có mang tính chất bóc lột hay không
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
1Cải tổ luật hợp đồng và sự ra đời của Bộ Nguyên tắc Luật Hợp đồng Châu Á
(PACL)
TS. Lê Nết1
Đã từ lâu, nhu cầu giao dịch giữa các thương nhân, cũng như các vấn đề ngoại thương
cần thiết phải có sự hiểu đúng và thống nhất các nguyên tắc cơ bản về hợp đồng. Từ các
cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Phương Tây, truyền thống dân chủ Hy lạp, từ các bộ
luật dân sự cổ đại của La Mã hay các phán quyết của các thẩm phán Anh Quốc đã ra đời
nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng. Sau đó, với những mặt trái của tự do giao kết hợp
đồng, hay nền kinh tế tự do chủ nghĩa (lassez faire, lassez passer) đã dẫn đến những chỉ
trích về nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, về việc bóc lột giá trị thặng dư mà Marx và
Engels đã lên án. Từ đó, khái niệm hạn chế nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng khi vi
phạm các chuẩn mực đạo đức, các giá trị cơ bản (core value) của quyền con người, là
nguyên tắc thiện chí và trung thực (good faith hay bona fidei).
Ở Châu Á, nền phong kiến Khổng Nho với các lễ giáo, về thuyết chính danh, về độc
quyền tư tưởng đã không phải là mảnh đất để phát triển những ý tưởng về tự do nói
chung, cũng như các ý tưởng về tự do giao kết hợp đồng nói riêng. Thiếu các quy định về
giao kết hợp đồng đã khiến nền kinh tế phong kiến Á Châu thiếu sức sống giao lưu
thương mại, quay về lối sản xuất trao đổi theo kiểu tự cung tự cấp. Khi bừng tỉnh bởi
trào lưu thực dân hóa đến từ Phương Tây, Phương Đông mới bắt đầu thấy cần cải tổ,
phải “thoát Á” như nhiều nhà cách tân Nhật Bản đã đề ra. Rồi các bộ luật dân sự của
Phương Tây, hay các học thuyết, quan điểm (doctrine) về luật hợp đồng của hệ thống luật
Anglo-Saxon đã thâm nhập vào các quốc gia châu Á, bằng con đường tự do lựa chọn
(như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) hay con đường cưỡng ép của chế độ thực dân
(như Việt Nam, Malaysia, Hong Kong hay Singapore).
Đến thế kỷ 21 – thế kỷ của Châu Á, chúng ta mới có dịp ngồi lại về ngẫm nghĩ xem các
giá trị Phương Tây mà chúng ta dựa trên để xây dựng luật hợp đồng của chúng ta đã được
bắt rễ vào truyền thống Khổng Nho Á Châu hay chưa, hay nói khác đi, truyền thống
Khổng Nho Á Châu có thể xây dựng được một hệ tư tưởng các nguyên tắc hợp đồng của
Á Châu hay không. Để thực hiện mục tiêu trên – giáo sư Naoki Kanayama cùng các đồng
nghiệp của Đại học Keio, Tokyo Nhật Bản đã khởi xướng ý tưởng xây dựng Bộ Nguyên
tắc Luật Hợp đồng Châu Á (Principles of Asian Contract Law hay PACL). Hội thảo -
hay nói khác đi là “công xưởng” (workshop) – nơi các chuyên gia pháp luật đến từ các
nước khác nhau ở Châu Á, đã tiến hành lần đầu tiên tại Tokyo, Nhật Bản, từ ngày 6 đến
ngày 8 tháng 3 năm 2010 đã được nhóm họp. Các chuyên gia đến dự họp đến từ Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Campuchia đã đến dự. Từ Nhật Bản
có GS Kanayama, và GS [ ] từ Đại học Keio, GS [ ] từ Đại học Hokkaido, LS
Moriwaki từ Công ty Luật Anderson Mori & Tomasune, từ GS [ ] và GS [ ] từ Đại học
Thanh Hoa, Bắc Kinh, Trung Quốc, GS [ ] và GS [ ] từ Đại học Seoul, Hàn Từ Việt
Nam có TS Nguyễn Ngọc Điện của Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh và tui từ Trường
Đại học Luật TP Hồ Chí Minh tham dự. Cuộc họp lần thứ hai sẽ được tiến hành tại Đại
1
Giảng viên khoa Luật Dân sự Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, luật sư thành viên, Công ty luật
LCT.
2
học Quốc gia TP Hồ Chí Minh vào tháng 8 năm 2010, theo đề xuất của TS Nguyễn Ngọc
Điện. Sau đó, các cuộc họp sẽ tiến hành mỗi năm 2 lần, và hy vọng bộ PACL sẽ được
hoàn thành từ 10 đến 20 năm sau.
Khi ra đời, các chuyên gia không hy vọng PACL sẽ trở thành một công ước quốc tế, mà
với tư cách là một mẫu luật (model law), như Những Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại
Quốc tế (Principles of International Commercial Contracts - PICC) của UNIDROIT, hay
Bộ Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Châu Âu (Principles of European Contract Law –
PECL). Với tư cách là một mẫu luật, đó là một sản phẩm làm ra để chờ khách hàng – là
các thương nhân, doanh nghiệp. Nếu “khách hàng” muốn chọn mẫu hợp đồng, hay luật
mẫu là tùy họ. Khi đó, PECL, PICC hay PACL sẽ trở thành các sản phẩm làm sẵn để họ
chọn. Sản phẩm nào tốt nhất, phù hợp nhất đối với khách hàng sẽ được khách hàng chọn.
Với tư cách là người làm ra sản phẩm, người soạn thảo phải suy nghĩ sao cho sản phẩm
của mình có gì “đặc sắc” hay “khác biệt” so với các sản phẩm khác. Vậy đối với PACL,
sự khác biệt đó là gì? Đây là chủ đề được tranh luận tại hội thảo. Quan điểm của GS
Kanayama cho rằng Châu Á nên xây dựng bản sắc của mình về hợp đồng. Cụ thể là, các
quan điểm về công bằng, lẽ phải và hợp lý cần được đề cao, không cho phép bên
mạnh thế được bóc lột bên yếu thế khi soạn thảo và thực hiện Hợp đồng. Như vậy, nhắc
đến PACL là nhắc đến mẫu luật để bảo vệ bên yếu thế, đem lại công bằng cho các bên.
Quan điểm của GS Chen, GS Chung Fu từ Đại học Đài Loan và GS Nguyễn Ngọc Điện
cho rằng không hẳn một ý tưởng của Phương Tây là không thể áp dụng được ở Châu Á.
Châu Á có thể học hỏi được ở Châu Âu nhiều điều hay, hay phát triển những gì đã học
được ở Châu Âu.
Dẫu sao, cả hai trường phái đều gặp nhau ở hai điểm. Điểm thứ nhất, đó là hợp đồng cần
phải đặt trên sự tự do, tự nguyện giao kết. Điểm thứ hai gặp nhau, đó là vấn đề tiên quyết
của luật hợp đồng là giải thích hợp đồng. Đây là điểm lạ so với khoa học pháp lý Việt
Nam. Lâu nay trong các giáo trình luật dân sự, chúng ta không giành thời gian cho việc
phân tích cách giải thích hợp đồng. Điều 409 (BLDS 1995 lẫn BLDS 2005) cũng không
sửa đổi gì. Tòa án hay trung tâm trọng tài cũng ít khi vận dụng các quy định về giải thích
hợp đồng. Thay vào đó, việc giải thích hợp đồng thông thường dựa trên từ ngữ và ý nghĩa
thông thường của nội dung hợp đồng, hay nếu có nhấn mạnh đến ý chí chung của các
bên thì cũng khó tìm ý chí này khi các bên đang tranh chấp. Vấn đề sử dụng các thư từ
trao đổi xung quan hợp đồng để giải thích ý nghĩa của hợp đồng cũng ít khi được đề cập.
Tại hội thảo lần thứ nhất, các học giả đã tập trung làm rõ các điều khoản sau đây:
1. Nguyên tắc cơ bản của hợp đồng;
2. Mục đích giải thích hợp đồng;
3. Cách thức giải thích hợp đồng; và
4. Giá trị của điều khoản “toàn bộ thỏa thuận nằm trong hợp đồng này” (merger
clause).
3
1. Nguyên tắc cơ bản của hợp đồng
Về nguyên tắc cơ bản của hợp đồng, quan điểm của GS Kanayama cho rằng quyền tự do
giao kết hợp đồng không có nghĩa là một bên (bên mạnh thế) có quyền bóc lột bên kia
(bên yếu thế) trong giao dịch. Mọi giao dịch mang tính chất bóc lột đều bị vô hiệu. Trên
nguyên tắc, các học giả từ quốc gia khác ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, điều khó giải
thích là làm sao biết một giao dịch có mang tính chất bóc lột hay không.
Thí dụ: ngân hàng A thỏa thuận với ngân...