Download Đề tài Ảnh hưởng văn học dân gian với văn học viết Việt Nam miễn phí
Trước lớp báo ân báo oán, Nguyễn Du hãy còn bắt Bạc Hạnh thề và lần này thì tác giả còn vẽ cảmột cảnh bày biện thờ cúng:
“Một nhà dọn dẹp linh đình
Quét sân, đặc trác, rửa bình, thắp nhang
Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng
Quá lời nguyện hết Thành Hoàng, Thổ Công”
Dọn dẹp thì rất sang trọng, công phu, thề thì rất nhanh, chỉ trỏ bông lông bao la cho qua chuyện, Mã Giám Sinh, Tú bà thề còn mượn đến “ cấp cao” là trời đất còn Bạc bà, Bạc hạnh cuối mẻ thề chỉ mượn đến “ cấp dưới” là Thành Hoàng, Thổ Công, nhưng lại “ quá lời” một sống hai chết ! Nguyễn Du không chỉ dựng lên một mẻ thề mà dựng lên một cảnh tương phản giữa hình thức bày biện kỹ lưỡng, rềnh ràng với nội dung thề thốt qua loa, đó là điều vô lí không thể hiểu được trong xã hội suy tàn. Sự tương phản ấy vừa có ý nghĩa xã hội sâu sắc, vừa là một sự trào phúng, đả kích “ Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công” là một sáng tạo nên tiếng cười trong ca dao lẫn người bình dân Việt Nam. Nãy giờ quên mất anh chàng sở khanh:
“ Sở khanh lên tiếng rêu rao
Nọ nghe rằng có con nào ở đây”
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
û trang giấy viết của Nguyễn Du ấy! Tuy nhiên xã hội ta vẫn chưa diệt hết hạng người áy, chứng cứ sống dai khiến người ta nhớ như in dáng điệu không lẫn vào đâu “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao” của mụ! Không còn cô Hoạn Thư trong cái cách sai tay chân đi đốt nhà, bắt người về hành hạ nhưng cái mưu mô của mụ thì quả là sâu sắc, khi ta cợt nghĩ đến vẫn còn “sởn da gà”. Nhân vật Hoạn Thư là một sáng tạo thật ly kì, thật hiếm có nhưng lại rất thật! Nhưng nếu cuộc đời ta đang xây dựng không còn những anh Thúc Sinh thì không bao giờ còn mụ Hoạn Thư! Cái anh Thúc Sinh sợ vợ, không chút khí phách đàn ông nhưng lại tốt bụng hiền lành. Còn cái tên “Sở Khanh, thật đúng với cái tên của hắn. Từ anh Sở Khanh cưỡi ngựa chuồn mất trong “Truyện Kiều” đến những anh Sở Khanh trong đời thường không đi ngựa mà đi bộ, đi xe đạp hay ô tô mà người ta vẫn cứ nhớ cái “Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!” Bỡi nó rất điển hình cho tính “anh hùng rơm” của gã, chỉ biết đấm ngực kêu thời nhưng rốt cuộc chỉ là cái mắt mo mà nàng Kiều muốn lờ đi.Nếu nói về cách sử dụng ngôn từ, ca dao , tục ngữ một cách nhuần nhuyễn trong tác phẩm “Truyện Kiều” thì không thể tìm người thứ hai ngoài Nguyễn Du. tui lấy ví dung trong đoạn trích” Chị Em Thuý Kiều”
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làm thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen tha thắm liểu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Chỉ trong sáu câu thơ mà Nguyễn Du sử dụng một điển tích và hai hình ảnh ẩn dụ. Nguyễn Du sử dụng điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” để phụ hoạ làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều, khiến nười ta cũng phải say mê đến nổi mất thành, mất nước.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”, lại một hình ảnh ẩn dụ miêu tả vẻ đẹp trời cho của nàng, đôi mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày như nét của mùa xuân. Chả thế mà đến thiên nhiên cũng phải “Hoa ghen”, “liễu hờn”. Các bức tranh của Nguyễn Du mang cái đặc tính và nhưựoc điểm của văn chương cổ điển: tả người một cách tuyệt đối hoá, tất phải đẹp nhất và tài nhất, đàn ông thì văn chương nết đất, thông minh tính trời còn đàn bà thì “sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”. Tuy nhiên, Nguyễn Du có phóng đại về nội dung, mà hình thức văn thì kiệm, ít lời nhiều chất thể nên người đọc vẫn còn thấy phải chăng.
Còn Thuý Vân:
“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
“Thốt” cũng có nghĩa là nói, nhưng nếu để “Hoa cười ngọc nói” thì chữ “ Nói” bị ảnh hưởng của chữ cười, thế thì hoá ra “Cười nói” mà cười nói nói chẳng hoá ra nói nhiều. Chữ “ Thốt” là thỉnh thoảng mới nói ( Lấy từ câu tục ngữ “ Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” ) đáng mới nói, nghĩ rồi mới thốt ra, có thể mới “ Đoan trang”. Thuý Vân cũng rất đẹp, điều đó không còn bàn cãi gì nữa, nhưng lại đẹp một cách phúc hậu “Khuôn trăng đầy đặn” nói nôn na ra là “Phinh phính đôi má bánh đúc”, cho nên “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” thua xong, nhường xong là yên ổn. Còn Thuý Kiều cũng rất đẹp nhưng đẹp theo lối “Chim sa cá lặn” ( Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh ). Hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải kém Thuý Kiều, chúng nó “hờn”, “ghen” và chúng sẽ trả thù và nàng Kiều sẽ phải lắm phen long đong, lận đận, truân chuyên với chúng! Thật là một kết quả dự báo gần như là chính xác đối với thời điểm đó!
- Điển tích mà Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm của mình không phải lời ít, mà ngược lại rất phong phú đằng khác. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, mở đầu là câu “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”. Điển tích mà Nguyễn Du sử dụng ở đây là điển tích “Khoá xuân toả nhị Kiều” nói về việc vua Tần cho bắt nhốt hai người con gái đẹp nhất là Đại Kiều và Tiểu Kiều vào trong cung để họ phải chết mòn mỏi. Không biết là hữu hay vô ý mà cô Kiều của chúng ta lại có tên giống hệt người con gái trong điển tích. Há chẳng phải Nguyễn Du có ý rằng nàng Kiều sau lần tự tử không chất, bị mụ Tú giam vào lầu Ngưng Bích như “cá cắn câu”, “chim vào lồng” đó sao? Hay điển tích “Sân Lai” trong câu “Sân Lai cách mấy nắng mưa” (Lão Lai Tử dù đã có tuổi nhưng vẫn còn mặc áo sặc sỡ để mua vui cho cha mẹ) cũng thể hiện được sự hiếu thuận của nàng Kiều, một lòng hướng về cha mẹ hay sao? Còn trong đoạn:
“Nàng rằng: nghĩa nặng nhìn non
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”
“Sâm Thương” chính là sao Kim, một hành tinh trong hệ Mặt Trời, nhưng người xưa đánh giá là hai ngôi sao, một ở phía đông và một ở phía tây, sao này mọc, sao kia lăn. Nguyễn Du dùng “Sâm Thương” để chỉ sự cách biệt không bao giờ gặp nhau giữa Thuý Kiều và Thúc Sinh. Thúc Sinh đi rồi, Kiều không thể nào làm “vẹn chữ lòng”. “Người cũ” và “cố nhân” đều đồng nghĩa với nhau và đều chỉ Thúc Sinh, thể hiện sự biết ơn của nàng trước hành động nghĩa hiệp của Sinh: cứu nàng ra khỏi lầu xah lần thứ nhất.
- Do có cả một thời gian chỉ sống giữa nhân dân cho nên Nguyễn Du có hẳn cảmột kho tục ngữ, ca dao để vận dụng vào trong thơ của mình. Ví như đoạn Thuý Kiều gợi nhắc đến Hoạn Thư trong lúc đối thoại với Thúc Sinh trong đoạn trích “Thuý kiều báo ân, báo oán”
“Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng thoả nghĩa sâu cho vừa”
Nhắc đến Thúc Sinh, Kiều không thể không nhớ đến ả Hoạn Thư, cái kẻ đã cho bọn ưng, Khuyển đốt nhà, bắt cóc nàng về để đánh ghen. Khi cái anh chàng sợ vợ kia đã nói thực lòng mình:
“Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi”
thì cũng chính là lúc mà nàng Kiều bắt đầu cho một đời làm a hoàn, hoa nô cho nhà họ Hoạn. Ả năm lần bảy lượt hành hạ Kiều một cách khốc liệt nhất, bắt nang đánh đàn cho hai vợ chồng ả nghe, nhưng thực ra:
“Cùng trong một tiếng tơ đồng
người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”
Kiều hầu rượu cho vợ chồng Hoạn Thư:
“Vợ chòng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng chực tri hồ hai nơi”
“Hai nơi” chứ không phải “một nơi” đâu! Tức là phải đi đi lại lại để phục vụ rượu cho vợ chồng ả, hết bên chồng lại bên vợ. Mới chỉ có bấy nhiêu thôi mà ta cũng có thể đánh giá được bản chất của ả, một kẻ “quỷ quái tinh ma:, toàn dùng những thủ đoạn cay nhất, độc nhất để đánh ghen. Song, “phen” này thì ả đừng thoát khỏi tay Kiều (kẻ cắp bà già gặp nhau), Kiều sẽ trả thù, trả thù tất cả những gì mà ả đã “ban” cho nàng (Mưu Sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa). Lạinói thêm về ả Hoạn Thư, nhất là về thế ghen đặc biệt của Hoạn Thư, Nguyễn Du đặt trong ý nghĩ của Thuý Kiều, khi vợ chồng Thúc Sinh đã vào chung gối loan phòng, và nàng đã thức đêm suy nghĩ:
“Bây giờ mới rõ tăm hơi
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!”
Người ta nói nhà sư, nhà báo, nhà giáo, nhà văn; còn Nguyễn Công Tr