moody_babe

New Member

Download Đề tài Kinh kịch - Nét văn hoá truyền thống của dân tộc Trung Hoa miễn phí





MỤC LỤC
Lời nói đầu 0
Chương I 1
Lịch sử hình thành – ra đời và phát triển của Kinh kịch 1
1. Kinh kịch buổi đầu trong cái nôi hí khúc. 2
2. Một loại hình hí khúc được mến mộ: Kinh kịch ra đời. 2
3. Kinh kịch lên ngôi và hội tụ nhân tài. 2
4. Kinh kịch những thập kỉ 50, 60, 70 2
5. Kinh kịch từ thập kỉ 80 đến nay. 2
Chương II 2
Vai diễn trong Kinh kịch. 2
1. Phân vai trên sân khấu Kinh kịch. 2
1.1. Vai sinh: 2
1.2. Vai đán 2
1.3. Vai tịnh 2
1.4. Vai sửu 2
2. Nghệ thuật hoá trang các vai kịch 2
2.1. Trang phục của các vai diễn. 2
2.2. Nghệ thuật hoá trang mặt các vai diễn Kinh kịch. 2
2.3. Màu sắc thể hiện tính cách nhân vật. 2
Chương III 2
Nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu Kinh kịch. 2
1. Các kĩ thuật cơ bản: 2
1.1. Kỹ thuật “hát – nói” 2
1.2. Kỹ thuật “diễn” 2
1.3. Kỹ thuật “đánh” 2
2. Đặc kỹ “tuyệt chiêu làm mê hồn người” 4 2
2.1. Đặc kỹ thay đổi khuôn mặt 2
2.2. Đặc kỹ lửa màu 2
2.3. Đặc kỹ “chết đứng” 2
2.4. Đặc kỹ “đánh lên tay”, còn gọi là “đá lên tay” 2
Kết luận 2
Tài liệu tham khảo 2
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

phủ Quốc dân có những biện pháp tuyên truyền về hí khúc, từ đó tạo đà cho nghệ thuật Kinh kịch phát triển, lan toả ra cả nước và trở thành “Quốc kịch”. Do sự khác nhau của môi trường văn hóa khu vực và sự biến đổi của bối cảnh nhân văn, Kinh kịch đã hình thành hai trường phái lớn: Kinh phái và Hải phái. Kinh phái, trung tâm là Bắc Kinh, đã kính cẩn giữ vững những chuẩm mực lịch sử của nghệ thuật Kinh kịch, nhấn mạnh kế thừa nhiều hơn phát triển, sáng tạo cái mới. Còn Kinh kịch Hải phái mà đất phát tích là Thượng Hải thì chú trọng cách tân nghệ thuật, táo bạo hấp thu và học hỏi các hình thức biểu diễn nghệ thuật, đã dày công tìm kiếm cách phản ánh gương mặt thời đại và theo đuổi hiệu quả kinh tế thương nghiệp.
Thượng Hải là nơi gặp gỡ văn hoá Đông Tây sớm nhất Trung Quốc và là một thành phố buôn bán mới nổi lên, nhân tố tư bản chủ nghĩa tương đối phát đạt, thị dân dễ tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây. Khán giả không còn thoả mãn với kiểu “nghe hát” theo đúng qui củ mà mong được thưởng thức những trò rôm rả, tân kì thời thượng. Để thích ứng với dòng chảy thời đại và tâm lý dân đô thị, Kinh kịch Hải phái đã phá vỡ khuôn mẫu cũ, mạnh dạn cách tân, thu nạp cái mới, nhấn mạnh đến sự thẩm mĩ đô thị hoá. Về đề tài, họ sáng tạo ra các vở thời trang hí (hí kịch hiện đại) phản ánh cuộc sống hiện thực trong và ngoài nước. Về hình thức thể hiện, Hải phái đã học tập tham khảo nhiều thủ pháp tat thực chủ nghĩa của kịch nói và điện ảnh, làm giàu thêm lối biểu diễn sinh hoạt hoá. Sự chung sống và phát triển của hai phái Kinh – Hải đã dẫn đến một thời kì phồn vinh của Kinh kịch.
Sự phồn vinh ấy còn thể hiện tập trung ở việc xuất hiện hàng loạt các nghệ sĩ tên tuổi. Từ đầu thời kì Dân Quốc đến những năm 30, 40, trong Kinh kịch đã xuất hiện hàng loạt nhân tài. Trong đó tiêu biểu là bốn diễn viên Kinh kịch có bề dày kinh nghiệm, biết thể hiện phong cách trường phái trong nghệ thuật hát, gọi là “bốn danh kép lớn”, đó là: Mai Lan Phương (1894 - 1961), Thượng Tiểu Vân (1900 - 1976), Trình Nghiên Thu, Tuần Huệ Sinh (1900 - 1968). Mai, Thượng, Trình, Tuần, mỗi người hùng cứ một sân khấu, giọng hát đạt trình độ điêu luyện với phong cách biểu diễn độc đáo, hình thành các trường phái khác nhau.
Với Kinh kịch trường phái Thượng Hải, nhân vật tiêu biểu lên sân khấu biểu diễn hát kịch từ lúc mới bảy tuổi, với nghệ danh “thất linh đồng” nổi tiếng khắp vùng nam bắc Trường Giang, đó là Chu Tín Phương (1895 - 1975). Ông có phong cách biểu diễn nghệ thuật tự nhiên, chân thực, tuỳ hứng ứng tác. Hình tượng nghệ thuật mà ông tạo dựng có xương, có thịt khiến người xem khó quên.
4. Kinh kịch những thập kỉ 50, 60, 70
Bước vào những năm 50, cùng với chế độ xã hội mới được xác lập toàn diện, Kinh kịch cũng như các loại hình hí khúc khác, các đoàn biểu diễn, các gánh hát, các nghệ nhân được quy tụ trong ngành quản lý văn hoá của chính phủ. Các tiết mục, vở diễn được chấp nhận theo sự chỉ đạo một cách có tổ chức và kế hoạch. Nhà nước nêu cao phương châm sáng tác văn nghệ là đồng loạt thực hiện “chỉnh lý cải biên kịch truyền thống, sáng tác mới kịch lịch sử và kịch hiện đại” 1 Chương Di Hoà. Hí khúc Trung Quốc
. Đứng trước tình hình hàng ngàn, hàng vạn vở kịch truyền thống có khả năng bị thất truyền, một số nhà soạn kịch có trình độ văn hoá cao kết hợp với nghệ nhân đã kiên trì việc khai thác và chỉnh lý đối với một số tiết mục truyền thống và đã đưa tới một kết quả to lớn, đó là sự nở rộ của các vở Kinh kịch theo xu hướng này.
Bước vào nửa cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX, đất nước Trung Quốc sục sôi trong cuộc đại cách mạng văn hoá kéo dài mười năm (1966 - 1976). Chủ trương của cuộc cách mạng văn hóa này là “xoá bỏ bốn cái cũ”: tư tưởng cũ, văn hoá cũ, phong tục cũ, tập quán cũ. Kinh kịch cũng cùng chung số phận với các loại hình văn hoá tư tưởng cũ, nằm trong chủ trương “xoá bỏ” ấy. Các gánh hát bị giải tán, trang phục, công cụ đồ nghề biểu diễn bị đốt phá, diễn viên Kinh kịch, nhà soạn Kinh kịch bị phê đấu. Bối cảnh đặc biệt lúc ấy đưa Kinh kịch vào giấc ngủ dài suốt mười năm.
5. Kinh kịch từ thập kỉ 80 đến nay.
Cuộc cải cách mở cửa của Đặng Tiểu Bình đã mở ra cho Trung Quốc một chân trời phát triển mới. Kinh kịch sống trong một giai đoạn lịch sử mới cũng nhờ đó mà hồi sinh với gương mặt và dáng vẻ mới. Trên sân khấu Kinh kịch thời kì này, những vở kịch lấy đề tài lịch sử mới chiếm một tỉ lệ rất lớn. Nhưng từ tôn chỉ văn học đến hình thức tả thuật đã khác xa với cách nói xưa của tiền bối. Vở diễn không còn bó hẹp trong cách tường thuật tẻ nhạt, không nhằm mục đích thoả mãn quan điểm lịch sử đơn thuần “đi tìm dấu vết của một dân tộc, đi tìm sự hưng vong của một vương triền”2 Nguyễn Huy Quý - Nước CHND Trung Hoa (1949-1999)
mà đem sự biến thiên của xã hội, cái bí mật của đời người hoà quyện cùng trời đất để rồi xem xét giải thích cái đẹp của bản thân loài người bằng cái đầu triết lý và con mắt nhà thơ.
Sau những năm 80, kết hợp tính triết lý trong lịch sử với sự rung động mạnh mẽ trong chủ đề sáng tác, thuật lại sự kiện lịch sử mà mọi người đều biết, xây dựng lại những nhân vật lịch sử mà mọi người quen thuộc là khuynh hướng sáng tác mới của Kinh kịch thời kì này.
Ngày nay, xã hội Trung Quốc đang phát triển mạnh như vũ bão, các phương tiện thông tin và hình thức giải trí bùng nổ, Kinh kịch cũng như các loại hình văn hóa truyền thống dường như bị lãng quên. Người Trung Quốc, đặc biệt là giới trẻ không còn thú vui “xem hát” như xưa. Kinh kịch - một loại hình hí khúc phát triển rực rỡ, ngời sáng một thời - lùi vào hàng ngũ nghệ thuật truyền thống cần được bảo tồn của văn hoá dân tộc. Chính phủ Trung Quốc có nhiều biện pháp để bảo lưu loại hình nghệ thuật này, như tổ chức các buổi lưu diễn Kinh kịch ở Trung Quốc đại lục, ở Đài Loan, ở Hồng Kông….Tuy không thường xuyên nhưng cũng đủ để xác lập vị trí tồn tại của Kinh kịch trong xã hội hiện đại Trung Quốc và góp phần lay động tâm thức giới trẻ về nền văn hoá truyền thống đa dạng, đặc sắc.
Chương II
Vai diễn trong Kinh kịch.
1. Phân vai trên sân khấu Kinh kịch.
Các nhân vật xuất hiện trên sân khấu Kinh kịch, căn cứ vào thuộc tính tự nhiên (tuổi tác, giới tính), thuộc tính xã hội (nghề nghiệp, tính cách, khí chất), năng khiếu kỹ thuật, phong cách biểu diễn, dựa vào trang phục, hoá trang và sự biểu diễn được cường điệu về nghệ thuật rồi tổng hợp phân loại chia thành các vai diễn khác nhau gọi là phân vai. Kinh kịch ngay từ buổi đầu hình thành đã đi vào cung đình, nên sự phát triển nghệ thuật không giống như các hí khúc địa phương. Lĩnh vực đời sống đòi hỏi nó phải biểu hiện rộng hơn, loại hình nhân vật xây dựng phải nhiều hơn, hoàn chỉnh và toàn diện hơn. Đặc trưng này cũng phản ánh trong việc phân công các nhân vật thành những nhóm nghề di...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top