paperazy13

New Member

Download Đề tài Quản lý tập thể quyền liên quan đến tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam miễn phí





Thông thường có hai kỹ thuật để ban hành một giấy phép mở :
- Kỹ thuật thứ nhất: Giấy phép mở do luật định : kỹ thuật này yêu cầu thẩm quyền ban
hành một giấy phép mở sẽ được một văn bản pháp luật quy định, trong văn bản này sẽ chỉ định
chính xác một tổ chức quản lý tập thể sẽ có quyền đối với tất cả các tác phẩm trong quốc gia đó
ở mỗi một lĩnh vực nhất định.
Giấy phép mở này đương nhiên sẽ hình thành một cơ chế độc quyền theo luật định và vì
vậy, quy định này phải đi kèm với các biện pháp để chủ sở hữu quyền vẫn được đảm bảo tự mình
thực hiện quyền.
Ví dụ : tại nước
- Kỹ thuật thứ hai: Giấy phép mở rộng. Đây là một loại giấy phép được dựa trên cơ sở
“liên đới quản lý mở rộng”, nghĩa là một tổ chức quản lý tập thể sẽ ký kết các thỏa ước giữa một
tổ chức quản lý tập thể và các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp tập hợp nhiều
chủ sở hữu quyền.
=> Hoạt động này mang tính bán cưỡng chế
Tuy nhiên, kỹ thuật này vẫn đòi hỏi các tổ chức quản lý tập thể phải có một hành lang pháp
lý nhất định để có thẩm quyền ký kết với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp; tổ chức nghề nghiệp;
đồng thời phải có cơ chế để các tổ chức này có đủ thẩm quyền ký kết thỏa ước.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ền bồi thường đối với các thiết bị ghi âm, đến năm 1985 mở rộng ra việc thu tiền
bồi thường đối với các phương tiện ghi âm. Việc thu tiền bồi thường này sẽ được giao cho các tổ
chức quản lý tập thể hiện có hay thành lập hẳn một tổ chức riêng biệt như ZPU ở Đức, COPIE
FRANCE ở Pháp chuyên thu tiền đối với việc sao chép cá nhân các bản ghi âm, ghi hình.
Tuy nhiên, phải nhìn nhận thẳng thắn rằng, các đề xuất này gặp không ít phản ứng từ dư
luận. Mặt bằng nhận thức của người dân tại Việt Nam còn khá thấp, để có thể giải thích về tiền
bồi thường, về ý nghĩa của việc đánh thuế là rất khó khăn. Mặt khác, để thiết lập được một chế
định cho việc đánh thuế, mức thu, cơ chế thu, cơ chế phân phối cần rất nhiều thời gian. Có lẽ
chính vì điều này, mà các quy định này đã được ban dự thảo Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung
ghi nhận bằng việc bổ sung điều 25 Luật sở hữu trí tuệ như sau: “Chính phủ quy định cụ thể về
20
các hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và lưu hành đĩa quang; sử dụng đĩa quang trắng
để định hình, sao chép.”
Mặt khác, việc thiết lập tiền thuế bồi thường đánh vào việc sao chép cá nhân bản ghi âm
cần được tiến hành song song với các hoạt động mở rộng thị trường cấp phép cho việc sử
dụng hợp pháp, nghĩa là thúc đẩy hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể.
2.4 Giấy phép mở (Extended Collective Licence)
2.4.1 Các khái niệm cơ bản về cấp phép mở và giấy phép mở
Cấp phép mở mà kết quả cụ thể của nó là giấy phép mở là một hoạt động đem đến một lợi
thế to lớn cho quản lý tập thể.
Giấy phép mở chính là một loại giấy phép mà tổ chức quản lý tập thể cấp phép cho người
sử dụng sử dụng toàn bộ kho tác phẩm ở quốc gia đó (hay của toàn thế giới) có liên quan đến
quyền do tổ chức quản lý tập thể đó quản lý, không phụ thuộc vào việc chủ sở hữu quyền đã ủy
thác cho tổ chức quản lý tập thể đó quyền quản lý hay không. Việc cấp một giấy phép như vậy
được gọi là cấp phép mở.
Như vậy hoạt động cấp phép mở góp phần thúc đẩy mối quan hệ giữa các tổ chức quản lý
tập thể và các đơn vị sử dụng.
2.4.2 Lợi thế của việc cấp phép mở
- Cấp phép dễ dàng, thuận lợi;
- Hạn chế những tranh cãi pháp lý;
- Khẳng định vị trí độc quyền hợp pháp của một tổ chức quản lý tập thể, giảm thiểu sự
cạnh tranh của các tổ chức tư nhân khác;
- Tạo điều kiện cho người sử dụng liên hệ với tổ chức quản lý tập thể để có được quyền sử
dụng tác phẩm hợp pháp.
Nhìn chung, nếu giấy phép mở không được áp dụng thì những lợi thế của một tổ chức quản
lý tập thể sẽ bị hạn chế hay thậm chí bị loại bỏ.
Để giải thích cho nhận định này, có thể lấy một dẫn chứng vừa xảy ra tại Việt Nam trong
năm 2008. Đó là vụ tranh cãi kéo dài từ tháng 6 giữa RIAV và công ty FPT Telecom đối với việc
sử dụng các bản ghi âm ghi hình. Mấu chốt của vấn đề là cả hai đều cho rằng mình nắm giữ
quyền của các hãng ghi âm, ghi hình đã ủy thác cho. Nhiều tranh cãi đã xảy ra, thậm chí hai bên
phải sử dụng những biện pháp pháp lý để chứng minh việc quản lý quyền của mình là hợp pháp
thông qua việc đưa ra các hợp đồng ủy thác quyền. Trong những tranh chấp như vậy, tư cách
pháp lý của một tổ chức quản lý tập thể như RIAV hoàn toàn tương tự với một pháp nhân dân sự
thông thường như FPT Telecom.
Cả hai đều cho rằng, mình có quyền cấp phép cho đơn vị sử dụng (ở đây là công ty Nokia).
21
Điều này đã tạo ra một sự khó khăn rất lớn cho quản lý tập thể, hạn chế sự phát triển của
một tổ chức quản lý tập thể – thậm chí trong trường hợp của RIAV được nhắc đến ở trên - nếu
như không có những hành động quyết liệt, có thể RIAV đã không thể tồn tại với sự cạnh tranh
của FPT Telecom. Bên cạnh đó, sự thiếu vắng của một giấy phép mở có thể đem đến nhiều tranh
cãi pháp lý. Tổ chức quản lý tập thể, người sử dụng và cả tác giả đều phải xem xét và đối chiếu
từng tác phẩm có nằm trong danh sách quản lý và có thuộc quyền quản lý của tổ chức quản lý tập
thể đó hay không. Chắc chắn việc này sẽ mất nhiều thời gian và thậm chí là làm cho những ưu
việt của quản lý tập thể giảm sút. Bởi vì, sau khi liên hệ để xin được giấy phép của tổ chức quản
lý tập thể, người sử dụng vẫn phải liên hệ với chính chủ sở hữu quyền để có được quyền sử dụng
đối với các tác phẩm còn lại và vì vậy sự tồn tại của có thể trở nên vô nghĩa.
2.4.3 Những tác động xấu của việc cấp giấy phép mở
Bên cạnh những lợi thế của một giấy phép mở cũng cần nhắc đến những tác động xấu có
thể xảy đến khi nhà nước cho phép một tổ chức quản lý tập thể có quyền được cấp một giấy phép
mở.
Trước hết, giấy phép mở sẽ làm giảm đi quyền tự do của chủ sở hữu quyền. Vì vậy, cần
phải chắc chắn rằng một giấy phép mở sẽ không làm hạn chế quyền tự quyết định đối với quyền
của chủ sở hữu quyền, và nhất là khi một tổ chức quản lý tập thể chưa thực sự hoạt động hiệu
quả.
Thứ hai, giấy phép mở có khả năng đem đến một tình trạng độc quyền trên thực tế hay
độc quyền theo luật định. Để giảm thiểu khả năng này, việc ban hành một thẩm quyền cấp một
22
giấy phép mở phải đi kèm với các biện pháp để kiểm soát khả năng độc quyền này (vấn đề này
sẽ được nói cụ thể ở phần dưới của đề tài).
Nắm bắt được vấn đề này cũng rất tốt và rất cần thiết cho các tổ chức quản lý tập thể Việt
Nam để định hướng cho hoạt động của mình trong tương lai, nhằm phát triển bền vững và hỗ trợ
thành viên một cách tốt nhất.
Có thể dễ dàng nhìn thấy rằng, pháp luật Việt Nam chưa quy định về vấn đề quản lý tập thể
và giấy phép mở, nghĩa là, toàn bộ các quy định về vấn đề này phải dựa vào văn bản của pháp
luật sở hữu trí tuệ và pháp luật dân sự. Theo đó, các chủ sở hữu quyền chỉ có thể chuyển giao
một số quyền cho một tổ chức quản lý tập thể khi có hợp đồng ủy thác quyền.
Hiện nay, RIAV đều phải ký các hợp đồng ủy thác với từng thành viên. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc, các thành viên có khả năng chấm dứt các hợp đồng ủy thác bất cứ khi nào,
và những tranh chấp pháp lý sẽ rất dễ xảy ra trong quá trình chuyển đổi và rút các tác phẩm của
chủ sở hữu quyền đó ra khỏi danh sách quản lý của RIAV. Điển hình là vào tháng 12 năm 2008,
phòng thu âm Viết Tân đã tuyên bố không tiếp tục ủy thác việc quản lý quyền liên quan cho
RIAV. Sau đó, trang web www.yeuamnhac.com (vốn trước đó ký hợp đồng sử dụng tác phẩm
với RIAV) đã không kịp gỡ bỏ các bản ghi của phòng thu Viết Tân và ngay lập tức, trang web
này đã bị Viết Tân studio lên tiếng cảnh cáo.
Với những lợi thế và cả bất lợi của một giấy phép mở, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải lựa chọn và ra những quyết định phù hợp về lĩnh vực nào, thời
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top