Lauritz

New Member

Download Giám hộ, thay mặt trong Bộ luật dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự miễn phí





Trong tố tụng dân sự Chế định giám hộ, thay mặt được áp dụng khá phổ biến
Theo Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) thì:
- Năng lực hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS) là khả năng tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự hay uỷ quyền cho người thay mặt tham gia tố tụng dân sự.
- Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ NLHVTTDS, trừ người mất NLHV dân sự, người bị hạn chế NLHV dân sự hay pháp luật có quy định khác.
- Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hay người mất NLHV dân sự thì không có NLHVTTDS. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người thay mặt hợp pháp của họ thực hiện.
- Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người thay mặt hợp pháp của họ thực hiện.
- Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hay dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hay quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người thay mặt hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại Toà án do người thay mặt hợp pháp của họ thực hiện.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ích hợp pháp của người được giám hộ. 1.4 Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niênĐiều 61 BLDS 2005 so với Điều 70 BLDS 1995 có sửa đổi bổ sung nhỏ, ngoài việc sửa đổi hay thêm từ cho chính xác thì có mở rộng thêm diện người giám hộ. Cụ thể: Khoản 2 Điều 61 BLDS năm 2005 đã quy định: “Trong trường hợp không có anh, chị, em ruột hay anh, chị, em ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì ông, bà nội, ông, bà ngoại là người giám hộ. Nếu không có ai trong số người thân thích này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì làm người giám hộ. Việc mở rộng diện người làm giám hộ này là cần thiết và phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam. 1.5 Cử người giám hộ. Điều 63 BLDS 2005 quy định: Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất NLHV dân sự không có người giám hộ đương nhiên thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ hay đề nghị một tổ chức đảm nhiệm việc giám hộ. So với Điều 72 BLDS 1995 thì Điều 63 BLDS 2005 ngoài việc thay cụm từ “người mất NLHV dân sự” cho cụm từ “người bị bệnh tâm thần hay mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình”, còn bỏ quy định: “những người thân thích của người được giám hộ cử một người trong số họ làm người giám hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì họ có thể cử một người khác làm người giám hộ”. Việc bỏ quy định nêu trên là chính xác, vì Điều 61 và Điều 62 BLDS 2005 đã quy định cụ thể người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên và của người mất NLHV dân sự trong đó quy định rõ thứ tự những người thân thích của người được làm giám hộ sẽ đảm nhiệm việc làm giám hộ. Hơn nữa theo quy định của Điều 72 BLDS 1995 những người thân thích của người được giám hộ nếu không có ai đủ điều kiện làm giám hộ thì họ có thể cử một người khác làm giám hộ. Quy định này là không thực tế vì những người thân thích của người được giám hộ có quyền gì để cử người khác làm giám hộ và cử ai, luật lại không quy định. 1.6. Quản lý tài sản của người được giám hộ.Điều 69 BLDS 2005 quy định việc quản lý tài sản của người được giám hộ, ngoài việc sửa đổi bổ sung từ ngữ, câu chữ, khoản 3 Điều 69 BLDS 2005 bổ sung quy định: “Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ không bị coi là vô hiệu nếu giao dịch đó được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”. Khoản 3 Điều 79 BLDS 1995 không có quy định này. Việc bổ sung quy định này là cần thiết và hợp lý. Quy định này không những không làm hại đến quyền và lợi ích của người được giám hộ, mà lại bảo đảm được sự bình đẳng giữa người giám hộ với những người khác trong các giao dịch dân sự và phù hợp với đạo lý của người Việt Nam. 1.7 Chuyển giao giám hộ của người giám hộ được cử. Điều 71 BLDS 2005 quy định chuyển giao giám hộ của người giám hộ được cử, so với Điều 81 BLDS 1995 thì Điều 71 BLDS 2005 bổ sung khoản 4 mà Điều 81 BLDS 1995 không có. Đó là “Việc chuyển giao giám hộ phải được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ mới công nhận” Quy định này phù hợp với quy định về đăng ký hộ tịch. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi…Hơn nữa theo Điều 63 BLDS 2005 thì việc cử người giám hộ là do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ cử người giám hộ nên việc chuyển giao giám hộ của người giám hộ được cử cần có sự công nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn người giám hộ mới. 1.8. BLDS 2005 bỏ quy định về “việc giám hộ của cơ quan lao động, thương binh và xã hội”. Theo Điều 73 BLDS 1995 thì “Trong trường hợp không có người giám hộ đương nhiên và cũng không có người giám hộ, thì cơ quan lao động thương binh và xã hội nơi cư trú của người được giám hộ nhận việc giám hộ”. Quy định như trên là mâu thuẫn với quy định về “cử người giám hộ” (Điều 72 BLDS 1995, Điều 63 BLDS 2005), vì các Điều luật này quy định “Trường hợp những người thân thích của người được giám hộ cử người giám hộ, nếu không có những người thân thích hay không cử được thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được giám hộ cư trú có trách nhiệm cử người giám hộ hay đề nghị tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ”. Với quy định này thì không thể xảy ra trường hợp Uỷ ban nhân dân xã không cử được người giám hộ. Hơn nữa hiện nay cơ quan lao động, thương binh và xã hội chỉ có từ cấp huyện trở lên, trong khi đó người được giám hộ lại cư trú, sinh sống ở đơn vị thôn, xã làm sao cơ quan lao động, thương binh và xã hội biết tới. Mặt khác, BLDS 2005 đã quy định cụ thể người làm giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên (Điều 60) và của người mất NLHV dân sự (Điều 62) và quy định rõ trường hợp cử người giám hộ khi không có người giám hộ đương nhiên (Điều 63) vì vậy bỏ quy định việc giám hộ của cơ quan lao động, thương binh và xã hội là hợp lý. 2. Những điểm mới về thay mặt trong BLDS 2005. Đại diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Chế định thay mặt được quy định trong Chương VII, Phần thứ nhất BLDS 2005 với 10 điều từ Điều 139 đến Điều 148, trong đó có 8 điều sửa đổi, bổ sung, 2 điều giữ nguyên so với quy định tương ứng tại BLDS 1995, đó là Điều 140 (Đại diện theo pháp luật) và Điều 141 (người thay mặt theo pháp luật). Sau đây là những điểm sửa đổi bổ sung quan trọng: 2.1 Về khái niệm đại diện Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 quy định: “Đại diện là việc một người (sau đây được gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. So với khoản 1 Điều 148 BLDS 1995 thì khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 bổ sung thêm không lớn nhưng đã nhấn mạnh được trách nhiệm của người đại diện, phản ánh đúng bản chất của đại diện, từ đó có cơ sở pháp lý để giải quyết những trường hợp người thay mặt xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự không xuất phát từ lợi ích của người được đại diện.  Ngoài ra Điều 139 BLDS 2005 còn thêm khoản 5 “người thay mặt phải có NLHV dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của bộ luật này” 2.2 Đại diện theo uỷ quyền. Điều 142 BLDS 2005 có một sửa đổi nhỏ về hình thức ủy quyền như sau: “Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải lập thành văn bản”. So với khoản 2 Điều 151 BLDS 1995 thì quy định về hình th...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top