Download Một số bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính miễn phí
Hiện nay vẫn còn nhiều hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tố tụng (dân sự, hình sự, hành chính) chưa được quy định rõ ràng. Ví dụ, tại khoản 2 Điều 17 của Nghị định số 150/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội quy định về việc xử phạt hành chính đối với các hành vi: vi phạm các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn; vi phạm các quy định về nghĩa vụ của người tham gia tố tụng (như cản trở hoạt động xác minh thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra, không thực hiện nghĩa vụ người làm chứng); vi phạm quy chế, chế độ thi hành các bản án hình sự; cố ý không chấp hành hay cản trở việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án về dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình hay có các hành vi vi phạm khác theo quy định của pháp luật. Trong khi đó việc xử phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn xét xử lại chưa được quy định trong Nghị định này. Tại khoản 2 Điều 35 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 của Chính phủ về XLVPHC trong lĩnh vực tư pháp quy định: Cá nhân có hành vi cản trở, không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm danh dự người thi hành công vụ hay chống lại người thi hành công vụ; xúi giục người khác không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ; gây rối, làm mất trật tự hay hay lôi kéo, kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng hay có hành vi gây rối hay cản trở khác gây trở ngại cho các hoạt động trong lĩnh vực tư pháp được áp dụng theo quy định tại Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Như vậy, nếu căn cứ vào khoản 2 Điều 17 của Nghị định số 150/NĐ-CP để xử phạt hành chính các hành vi vi phạm theo tinh thần của khoản 2 Điều 35 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP sẽ dẫn đến việc bỏ sót các hành vi vi phạm trong giai đoạn xét xử tại Tòa án, rõ ràng đây là một quy định còn mang tính chất nửa vời giữa hai văn bản trong lĩnh vực XLVPHC .
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Một số bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chínhNhững kết quả đã đạt được trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) thời gian qua không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước mà còn đáp ứng yêu cầu phòng ngừa vi phạm pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn, một số văn bản này đã bộc lộ những bất cập, thiếu sót, vướng mắc và mâu thuẫn lẫn nhau. Bài viết đề cập đến một số vấn đề chưa thống nhất về thẩm quyền của một số chủ thể xử phạt hành chính và chế tài xử phạt hành chính (mức phạt tiền) quy định trong một số văn bản quy phạm XLVPHC hiện hành, đồng thời đưa ra một số ý kiến hoàn thiện pháp luật XLVPHC nhằm góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1. Một số bất cập về thẩm quyền và chế tài xử phạt hành chính
Thứ nhất, các quy định về mức xử phạt hành chính, về thẩm quyền của một số chủ thể XLVPHC trong một số lĩnh vực chưa có sự thống nhất giữa Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính hiện hành (Pháp lệnh XLVPHC) với văn bản pháp luật quản lý hành chính đơn hành.
Về mặt nguyên tắc, việc xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật XLVPHC phải bảo đảm tính thống nhất nội tại trong một văn bản cũng như giữa các văn bản với nhau, đồng thời phải rõ ràng về thứ bậc, chính xác, minh bạch và dễ hiểu, dễ thực hiện, có tính khả thi cao. Nhưng thực tế cho thấy, thẩm quyền của một số chủ thể và chế tài xử phạt hành chính quy định trong Pháp lệnh XLVPHC hiện hành vẫn còn mâu thuẫn với quy định trong một số văn bản luật chuyên ngành. Chẳng hạn, theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 40c của Pháp lệnh XLVPHC (sửa đổi, bổ sung năm 2008), thì Cục trưởng Cục quản lý cạnh tranh và Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh được quyền xử phạt hành chính hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh với mức phạt tiền tối đa là 70 triệu đồng. Trong khi đó, theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2005 thì cơ quan có thẩm quyền duy nhất được xử phạt hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là cơ quan quản lý cạnh tranh (Điều 49). Và cơ quan quản lý cạnh tranh được phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm (khoản 1 Điều 118 của Luật Cạnh tranh năm 2005). Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là: nếu cá nhân hay doanh nghiệp nào vi phạm pháp luật về cạnh tranh mà năm đó có tổng doanh thu lên đến 100 tỷ đồng hay nhiều hơn nữa thì mức phạt sẽ cao hơn rất nhiều mức quy định tại Điều 40c của Pháp lệnh XLVPHC năm 2008. Theo quy định tại khoản 2 Điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Với quy định này, thì chúng ta phải áp dụng theo quy định của Luật Cạnh tranh. Do đó, thẩm quyền và mức xử phạt tiền của cơ quan quản lý cạnh tranh thực tế có trường hợp sẽ vượt quá quy định mức phạt tiền tối đa tới 500 triệu đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Pháp lệnh XLVPHC năm 2008. Vậy theo quy định của hai văn bản nêu trên, thì phải sẽ áp dụng văn bản nào cho chính xác?
Thứ hai, nhiều chế tài hành chính quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật XLVPHC do các cơ quan quản lý khác nhau soạn thảo cùng điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định không có sự quy định thống nhất, dẫn đến sự chồng chéo, làm cho chủ thể áp dụng văn bản quy phạm pháp luật không biết hiểu và áp dụng chế tài của văn bản nào cho đúng.
Ví dụ, Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự an toàn xã hội, tại khoản 1, Điều 26 quy định: Hành vi vi phạm quy định về bán, sử dụng rượu, bia: “Phạt cảnh cáo hay phạt tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi say rượu, bia ở công sở, nơi làm việc, trong các khách sạn, nhà hàng, quán ăn, trên các phương tiện giao thông và những nơi công cộng”. Trong khi đó Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin, tại khoản 1, Điều 34 quy định: Vi phạm các quy định về nếp sống: “Phạt cảnh cáo hay phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi: say rượu, bia ở công sở, nơi làm việc, khách sạn, nhà hàng, quán ăn, vũ trường, nơi khiêu vũ công cộng, phòng hát karaoke, nơi hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn hóa, trên các phương tiện giao thông và những nơi công cộng khác”.
Như vậy, nhìn vào hai quy định trên, chúng ta thấy: cùng một hành vi say rượu, bia ở công sở, nơi làm việc, khách sạn, và nơi công cộng khác nhưng có quy định hai chế tài xử phạt tiền với mức khác nhau từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng và từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Vấn đề đặt ra ở đây là cả hai văn bản này hiện đều đang có hiệu lực thi hành, vậy hành vi say rượu, bia tại những nơi nêu trên nên áp dụng theo chế tài của văn bản nào? Theo tinh thần của khoản 3 Điều 83 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau”. Mặc dù hai văn bản này đều do Chính phủ ban hành (cùng một cơ quan ban hành), nhưng trong trường hợp này với hai quy định nêu trên có thể được hiểu là cùng về một vấn đề hay không? Trong khi Nghị định số 150/2005/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự an toàn xã hội, còn Nghị định 56/2006/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin. Rõ ràng đây là hai lĩnh vực quản lý khác nhau, nhưng lại đều có quy định chế tài về xử phạt hành chính về hành vi vi say rượu, bia nơi làm việc và nơi công cộng với những mức phạt khác nhau. Vậy có được coi là trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay không? Theo quan điểm của chúng tôi, không thể hiểu và áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 83 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 được, bởi an ninh và trật tự an toàn xã hội và nếp sống văn hóa là hai vấn đề khác nhau (1).
Thứ ba, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về XLVPHC được ban hành thiếu cơ sở thực tiễn và không rõ ràng về thẩm quyền của chủ thể xử phạt hành chính.
Ví dụ: khoản 2 Điều 24 của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 của Chính phủ về Phòng, chống rửa tiền quy định: Cá nhân hay tổ chức có trách nhiệm trong phòng, chống rửa tiền, nếu vi phạm quy định tại Nghị định này mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định sau đây: a) Phạt cảnh cáo đối với hành vi không có quy chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ bao hàm các điều khoản về phòng, chống rửa tiền; b) Phạt tiền từ 5.000.000