Download Nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh miễn phí





Nghĩa vụ quan trọng nhất chủ sở hữu BMKD theo quy định của pháp luật Việt Nam là phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hay bất kỳ dữ liệu nào khác là BMKD cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. “Trong trường hợp pháp luật có quy định, người nộp đơn xin cấp phép kinh doanh, lưu hành dược phẩm, nông hoá phẩm phải cung cấp kết quả thử nghiệm hay bất kỳ dữ liệu nào khác là BMKD” (Khoản 1, Điều 128 Luật SHTT). Trong trường hợp này, người phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hay bất kỳ dữ liệu mật nào khác có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để giữ bí mật các thông tin đó “để các dữ liệu đó không bị sử dụng nhằm mục đích thương mại không lành mạnh và không bị bộc lộ”. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ trên, nếu “việc bộc lộ là cần thiết để bảo vệ công chúng”.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh là một loại tài sản trí tuệ rất có giá trị vì nó tạo ra lợi thế riêng của chủ sở hữu BMKD so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Bí mật kinh doanh (BMKD) là một loại tài sản trí tuệ rất có giá trị vì nó tạo ra lợi thế riêng của chủ sở hữu BMKD so với các đối thủ cạnh tranh khác. Theo Điều 39 của Hiệp định TRIPs (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - SHTT), việc bảo hộ quyền SHTT đối với thông tin bí mật (TTBM) là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới nhằm tạo dựng và phát triển các quan hệ thương mại lành mạnh và bình đẳng. ở nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đối với BMKD được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT) và một số văn bản hướng dẫn thực hiện Luật SHTT. Tuy nhiên, so với quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế giới, pháp luật nước ta về bảo hộ BMKD vẫn chưa đầy đủ, đang bộc lộ những hạn chế nhất định cần tiếp tục hoàn thiện.
1. Thực trạng pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh
Theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành, việc bảo hộ quyền SHCN đối với BMKD tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
1.1. Phạm vi và điều kiện bảo hộ
Phạm vi bảo hộ
Tại Việt Nam, BMKD là đối tượng của quyền SHCN được pháp luật bảo hộ theo Khoản 1, Điều 750 Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó, BMKD là “thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh” (Khoản 23, Điều 4 Luật SHTT). Tuy nhiên, không phải bất cứ TTBM nào cũng được bảo hộ. Điều 85 của Luật SHTT đưa ra danh mục các loại thông tin không được bảo hộ với danh nghĩa BMKD bao gồm: “1. Bí mật về nhân thân; 2. Bí mật về quản lý nhà nước; 3. Bí mật về quốc phòng, an ninh; 4. Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh”.
Như vậy, trong pháp luật Việt Nam đã có khái niệm BMKD; tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn chung chung, chưa làm rõ phạm vi các thông tin được bảo hộ. Điều này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng, BMKD đơn thuần là các thông tin về các hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Quan điểm khác lại xác định BMKD bao gồm cả các thông tin về khoa học kỹ thuật, thông tin về các hoạt động kinh doanh của chủ thể… Khác với Việt Nam, pháp luật các nước thường quy định tương đối rõ ràng về vấn đề này. Ví dụ: theo Khoản 4, Điều 1, Luật Bí mật thương mại hợp nhất của Mỹ năm 1979 (1), khái niệm “bí mật thương mại” đã được giải thích tương đối cụ thể, thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế: “Bí mật thương mại là các thông tin bao gồm công thức, mẫu hình, sưu tập các thông tin, chương trình, phương sách, biện pháp, công nghệ hay quy trình”.
Điều kiện bảo hộ đối với bí mật kinh doanh
Quyền SHCN đối với BMKD phát sinh khi BMKD đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định. Vì vậy, việc xác định các điều kiện bảo hộ đối với BMKD là rất quan trọng. Theo quy định của Điều 84 Luật SHTT, BMKD sẽ được bảo hộ khi đáp ứng các điều kiện sau: không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ lợi thế so với người không nắm giữ hay không sử dụng BMKD đó; được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để BMKD đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Ngoài ra, theo tinh thần của Điều 8 Luật SHTT, thì các BMKD trái với đạo đức xã hội, xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh sẽ không được pháp luật Việt Nam bảo hộ.
Về cơ bản, các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật nước ta đã thể hiện được ba đặc điểm chính của BMKD là: tính bí mật; có giá trị; và được chủ sở hữu bảo mật. Tuy nhiên, so sánh với quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, chúng ta thấy có một số điểm khác biệt như:
- Theo Điều 39 của Hiệp định TRIPs, một trong các điều kiện quan trọng để TTBM được bảo hộ là phải có giá trị thương mại (commercial value). Cụ thể, Khoản 2, Điều 39 Hiệp định TRIPs quy định thông tin được bảo hộ phải đáp ứng các điều kiện: “có tính chất bí mật nghĩa là các thông tin đó không phổ biến hay không dễ dàng tiếp cận thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó đối với những người thường xuyên giải quyết với các loại thông tin như vậy; có giá trị thương mại vì nó có tính chất bí mật, và được người kiểm soát hợp pháp thông tin đó giữ bí mật bằng các biện pháp hợp lý”.
Điều 9, Chương 2 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng quy định tương tự. Như vậy, pháp luật Việt Nam chưa thể hiện đầy đủ nội dung này. Trên thực tế, giá trị thương mại của TTBM được tạo ra bởi nhiều yếu tố, trong đó “lợi thế” mà TTBM mang lại cho người nắm giữ nó chỉ là một trong các yếu tố quan trọng làm nên giá trị thương mại của thông tin.
- Cũng theo Khoản 2, Điều 39 của Hiệp định TRIPs, thông tin được bảo hộ khi “không phổ biến, không dễ dàng tiếp cận” không phải là đối với mọi chủ thể mà chỉ đối với “những người thường xuyên giải quyết đối với các loại thông tin như vậy”. Điều này có nghĩa, ngay cả những người thường xuyên tiếp xúc, xử lý thông tin đó, thì đối với họ, những thông tin như vậy vẫn là loại thông tin không phổ biến, hay có thể gọi là thông tin “hiếm”. Quy định trên của Hiệp định TRIPs có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn cản việc bảo hộ quá rộng đối với các loại thông tin khác tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, nội dung này của Hiệp định TRIPs lại chưa được pháp luật Việt Nam thể chế hóa đầy đủ, rõ ràng.
Ngoài ra, pháp luật nước ta cũng chưa nêu cụ thể các biện pháp bảo mật mà chủ sở hữu BMKD được quyền áp dụng; những tiêu chuẩn để xác định những lợi thế mà BMKD mang lại cho chủ sở hữu dẫn đến việc xác định BMKD được bảo hộ trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn.
1.2. Thời điểm làm phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Khác với các đối tượng khác của quyền SHCN, quyền SHCN đối với BMKD của các chủ sở hữu không được xác lập thông qua hình thức cấp văn bằng bảo hộ mà được bảo hộ “tự động”. Có nghĩa là quyền SHCN đối với BMKD sẽ phát sinh khi đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật mà không cần thông qua bất cứ một thủ tục đăng ký nào. “Quyền SHCN đối với BMKD được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp BMKD và thực hiện việc bảo mật BMKD đó” (điểm c, Khoản 3, Điều 6 Luật SHTT). Điều này hoàn toàn phù hợp với tính chất đặc thù của BMKD cũng như các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, thời điểm chấm dứt quyề...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top