Download Những vấn đề pháp lý cơ bản mà Hiệp định thương mại đặt ra miễn phí





Tại khoản 2 điều 16 cũng quy định: “Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hay thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của pháp luật”. Như vậy bộ luật lao động đã cho phép người sử dụng lao động có một quyền rất cơ bản là dược dự tuyển chọn người vào làm việc tạo cơ sở của mình, đây là một điểm rất mới trong quy định của luật sư bảo đảm quyền tự chủ cho người sử dụng lao động mặt khác quá trình sử dụng lao động của họ lại càng khoa học hơn, hợp lý hơn và đương nhiên hiệu quả lao động lại càng cao hơn, quá trình đó nó tạo ra giá trị sản phẩm thấp hơn, giá trị sử dụng lại được nâng cao, thúc đẩy sự cạnh tranh sản phẩm.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Những vấn đề pháp lý cơ bản mà Hiệp định thương mại đặt ra
Lao động là bản chất của con người. Lao động là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành nên Đạo Đức của con người ,cụ thể là yếu tố phản ánh nét đặc trưng xã hội của con người.Thông qua lao động con người ngày càng trở lên hoàn thiện hơn về tư duy phát triển đầy đủ hơn cả về thể lực và trí tuệ, quá trình lao động đã làm cho trình độ nhận thức của con người ngày càng đạt được thành tựu cao cả trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội. Quá trình thực tiễn – tư duy – lao động – và thực tiễn đã khiến các nhà lý luận kinh điển tổng kết,đúc rút ra thành lý luận rất cơ bản, hơn nữa lý luận đó lại được qua một thời kỳ thử nghiệm thực tiễn rất lâu dài. Tính đúng đắn của nó là không thể phủ nhận. Có thể khẳng định rằng: Lao động là tiền đề của nhận thức. Quá trình lao động đã gắn kết tất cả mọi con người trong lao động lại với nhau – Mối quan hệ đó dược gọi là quan hệ lao động ngay từ buổi đầu sơ khai quan hệ lao động trong xã hội mới khi không lại ở sự tự giác, càng chính xác, cùng đảm trách và cùng thực hiện một công việc nhất định. Theo cùng thời gian quá trình lao động đã được chuyên môn hoá ngày càng cao, đặc biệt từ sau khi xã hội có sự phân công lao động lần thứ ba, các ngành chăn nuôi và thủ công được tách ra khỏi ngành trồng trọt, sự phân công lao động xã hội ngày càng trở lên sâu sắc hơn, rõ rệt hơn. Đặc biệt hơn trong thời kỳ xã hội có sự phân chia giai cấp, sự không thống nhất về ý trí giữa các giai cấp xã hội về lao động càng đẩy xã hội đến phân cực rõ rệt hơn bao giờ hết và từ đó thế giới xã hội loài người tiến dần đến giai đoạn chiến hữu nô lệ, một thời kỳ khủng hoảng và đen tối nhất của con người và bóc lột sức lao động của những đồng loại mà chính con người là thủ phạm. Có thể nói rằng “quan hệ lao động xã hội” là sự liên kết giữa mọi con người trong quá trình lao động sản xuất trên các lĩnh vực phân công lao động, sử dụng lao động và phân phối sản phẩm lao động mà họ làm ra, quan hệ lao động trong xã hội có giai cấp có thể xem xét rằng đó là một quan hệ bất bình đẳng bởi vì dưới chế độ xã hội ấy, giai cấp thống trị xã hội là giai cấp áp đặt mọi ý trí của nó lên toàn xã hội nói chung hay áp đặt ý trí riêng, về lĩnh vực lao dộng nói riêng, nó ý thức rằng toàn bộ hoạt động làm ra sản phẩm xã hội là để phục vụ tầng lớp giai cấp thống trị trong xã hội chứ không phải là để phục vụ cho toàn xã hội, vì vậy bóc lột sức lao động càng nhiều càng tốt, càng mang lại lợi nhuận cao. Trong quá trình sản xuất cho người sử dụng lao động, phân công lao động hay nói cho đúng hơn là càng mang lại siêu lợi nhuận cho giai cấp thống trị xã hội lúc bấy giờ.
Về phía người lao động họ không còn gì ngoài sức lao động của mình, họ phải mang nó đến bán cho người sử dụng lao động và có tư liệu sản xuât để bán chỉ sức lao động của mình đổi lấy một ít lương thực cho người sử dụnglao động ban phát để rồi họ mang về đảm bảo cho cuộc sông gia đình họ tuy biết việc còn vô cùng khó khăn so với các nhu cầu bình thường mà họ cần đến. Bản thân người lao động do chưa đủ để đáp ứng cho nhu cầu gia đình họ thì làm sao mà người lao động có thể tái sản xuất nếu lao động của chính bản thân họ nữa. Nguồn lao động trong xã hội có giai cấp đang phải ăn dần sức lao động của chính anh ta ...để rồi họ mới có đủ sức lao động mà tham gia hoạt động sản xuất cho người sử dụng lao động hay nói đúng hơn là bán rẻ mạc sức lao động của họ.
Quan hệ lao động trong xã hội có giai cấp là quan hệ bóc lột sức lao động của người sử dụng lao động đối với người lao động. Biểu hiện của sự bóc lột đó là người sử dụng lao động đồng thời giữ lao động một cách tuỳ tiện, thời gian lao động càng nhiều thì người lao động lại càng làm ra nhiều sản phẩm cho người sử dụng lao động, lợi nhuận càng cao. Mặt khác người lao động đã phải làm việc với một thời gian dài cường độ lao động lại rất lớn thế ma khi phân phối sản phẩm thì lại chẳng được bao nhiêu, kết quả lao động mà họ được người sử dụng lao động trả không sứng đáng với cái giá trị sức lao động mà họ đã phải bỏ ra trong quá trình sản xuất. Điều đó đã nói lên sự bất công trong quan hệ lao động dưới chế độ xã hội có giai cấp.
Lao động dưới chế độ có gíai cấp đã trở thành hàng hoá - một thứ hàng hoá đặc biệt, người lao động là một chủ thể đặc biệt sở hữu cái hàng hoá đặc biệt ấy- cái tài sản vô cùng quý giá đó.Chính lao động là điều kiện để tồn tại cho một con người nói riêng hay diều kiện tồn taị cho cả một xã hội nói chung.Nói một cách khác là sự tồn tại của xã hội không thể tach giời hoạt động thực tiễn cảu mỗi thành viên xã hội, đó chính là một quá chình khép kín theo xu hướng mở rộng và phát triển.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã mở ra trên đất nước ta một giai đoạn lịch sử mới đó là nền dân chủ cộng hoà một thế kỷ chân chị lý tưởng mà trải qua bao nhieu thời gian dài đấu tranh và đào thải tự nhiên mơí có dược.Chế độ dân chủ- chế độ chỉ có một giai cấp công nhân, một giai cấp có lực lượng vĩ đại ,hùng mạnh và tiến bộ nhất mà hạt nhân của nó là Đảng cộng sản mới có thể tiến hành thắng lợi được một cách chọn vẹn và toàn diện. Khẳng định rằng chỉ có nền dân chủ mới có thể đem lại sự bình đẳng, cuộc sống no đủ hạnh phúc cho tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Lao động hay nói dúng hơn là quan hệ lao động trong trế độ dân chủ là một yếu tố rất nhạy cảm ,nó không chỉ là một quan hệ đơn phương mà nó chính là một sự thoả thuận một cách rất nghiêm túc giữa người lao động và người sử dụng lao động ,sự phản ánh khách quan sự phát triển tất yếu của xã hội.Thông qua quan hệ lao động,người sử dụng lao động,sử dụng lao động một cách đúng mục đích nhằm tận dụng triệt để sức lao động đi thuê và đồng thời tạo ra được nhiều sản phẩm nhất cho doanh nghiệp, cho xã hội .Sức lao động của người lao động là tài sản quý giá nhất được người lao động sinh ra trong quá trình lao động và được tính bằng sản phẩm do chính họ làm ra. Tiền lương do người sử dụng thanh toán cho người lao động trong quá trình sản xuất phải bảo đảm bảo các yếu tố sau đây:
Tái sản xuất sức lao động cho chính người lao động:
Phụ cấp và bảo đảm cuộc sống thêm cho gia đình.
Một phần để tích luỹ và tham gia các hoạt động xã hội.
Sau gần năm mươi năm ra đời, năm 1994 nhà nước ta đã ban hành bộ luật lao động nhằm thể chế hoá sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam về quản lý nhà nước về lao động và sử dụng lao động.Bộ luật lao động năm 1994 đã đánh lên một bước quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.Nó từng kế thừa và phát triển lao động năm 1945 đến thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới. Cụ thể hoá các guyên tắc cơ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top