Download Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - Cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự miễn phí
Khác với cấp sơ thẩm, pháp luật tố tụng quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm rất rõ và cụ thể tại Điều 275 của BLTTDS: “giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án”. Bản án của cấp phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay, là bản án cuối cùng và kết thúc quá trình giải quyết vụ án dân sự. Điều này hoàn toàn đúng và phù hợp với nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử đã được BLTTDS quy định tại Điều 17. Nhưng thực tế lại không đơn giản như vậy, khi mà BLTTDS quy định thẩm quyền thứ ba của hội đồng xét xử phúc thẩm là “hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án”. Từ đó, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được quy định trong BLTTDS không phải chỉ qua hai phiên tòa, như đáng lẽ ra phải như vậy. Và cũng không có một điều luật nào quy định trong BLTTDS là vụ án đã bị xét xử ở cấp phúc thẩm tới lần thứ mấy thì hội đồng xét xử phúc thẩm không có quyền “hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án”.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sựNgay từ khi nước ta vừa giành được độc lập, ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán, trong đó đã ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử”. Đến nay, nguyên tắc này vẫn được ghi nhận tại Điều 11 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Và Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động xét xử của Tòa án: “Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo việc xét xử vừa đúng đắn, vừa nhanh chóng.”
Vụ án tranh chấp nhà và đất ở giữa bị đơn là ông Trương Gia Hải và nguyên đơn là bà Trương Thị Bản, trú tại 27 phố Lê Lợi, quận Hà Đông (Hà Nội) với những chứng cứ rõ ràng nhưng qua 14 năm (1995-2009) với 13 phiên tòa vẫn chưa kết thúc. Ngày 13/01/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng Thẩm phán xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm. Hội đồng Giám đốc thẩm đã quyết định hủy cả bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, chuyển giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Có nghĩa là, vụ án lại quay về điểm xuất phát. Cơ quan tố tụng từ địa phương đến trung ương đã mất quá nhiều công sức và thời gian, người tham gia tố tụng thì tán gia bại sản.
Đây chỉ là một vụ án cá biệt. Với chỉ một vụ án thì không thể đánh giá chung về tình hình xét xử của ngành Tòa án, nhưng những con số kỷ lục về phiên tòa nói trên đã nói được nhiều điều, nhất là về sự không hợp lý trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành. Và ở đây là sự không hợp lý do pháp luật quy định quyền hạn quá rộng cho mỗi cấp xét xử.
Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, một vụ án được xét xử qua cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, bên cạnh đó còn có thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm. Như vậy, theo nguyên tắc, một vụ án nếu phải xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì nhiều nhất cũng chỉ cần đến ba phiên tòa. Nhưng thực tế lại khác. Có những vụ án phải xét xử tới 9 - 10 phiên tòa, thậm chí tới 13 phiên tòa như ví dụ trên, nhưng vẫn chưa kết thúc được và cũng có thể không biết bao giờ mới kết thúc. Thực tế này phát sinh từ nhiều nguyên do, trong đó có việc chính trong các quy định của pháp luật đã tiềm ẩn những nguy cơ làm cho một vụ án có thể bị kéo dài và phải xét xử làm nhiều lần. Những phân tích dưới đây cho thấy điều này.
1. Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
1.1. Cấp sơ thẩm (cấp thứ nhất)
Cấp sơ thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ nhất. Tất cả các vụ án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành qua cấp sơ thẩm. Đây là cấp xét xử không thể thiếu và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu cấp sơ thẩm xét xử chính xác, nghiêm túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo hay kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, từ đó vụ án sẽ không bị kéo dài. hay giả sử, nếu bản án bị kháng cáo hay kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm thì cũng không mất nhiều công sức, thời gian và tiền của của Nhà nước cũng như của những người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, các quy định về xét xử cấp sơ thẩm đã làm xuất hiện tình trạng một số người tiến hành tố tụng cho rằng “cứ xét xử, sai đã có cấp phúc thẩm xét xử lại”, từ đó thiếu cương quyết, dứt khoát, ỷ lại và lệ thuộc vào cấp phúc thẩm. Còn những người tham gia tố tụng lại coi “cấp sơ thẩm muốn xét xử thế nào cũng được, nếu đạt được ý nguyện thì thôi, nếu không đạt được ý nguyện thì kháng cáo, cấp phúc thẩm xét xử mới có hiệu lực pháp luật thi hành ngay”. Mặt khác, pháp luật dùng khái niệm “sơ” đã làm cho nhiều người hiểu đơn giản rằng, “sơ” là “sơ khai”, “sơ sài”, “sơ qua”, “sơ sơ”, nên giảm lòng tin vào quyết định của cấp sơ thẩm, làm mất đi ý nghĩa quan trọng, cần thiết và bắt buộc của cấp sơ thẩm. Vì vậy, theo chúng tôi, không nên gọi là “cấp sơ thẩm” mà nên gọi là “cấp thứ nhất”.
Mặt khác, trong tất cả các văn bản pháp luật tố tụng của nước ta từ trước đến nay không có văn bản nào quy định về thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm, mà chỉ quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm, hội đồng giám đốc thẩm, hội đồng tái thẩm. Vấn đề này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, đây là cấp xét xử thứ nhất nên đối tượng xét xử của nó không thể là bản án, quyết định mà là các yêu cầu về dân sự rất phong phú của các đương sự. Theo Điều 25 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS), thì có tới 8 loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong mỗi loại việc lại có rất nhiều các yêu cầu cụ thể khác nhau. Vì phạm vi xét xử của cấp sơ thẩm quá rộng lớn nên không thể ấn định trước về thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm. Sở dĩ pháp luật tố tụng quy định được thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bởi xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hay kháng nghị (Điều 242 của BLTTDS) còn hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm là các cấp xét lại bản án, quyết định của cấp xét xử trước. Do đó, quyền hạn của các cấp này dễ dàng ấn định được trước xung quanh các vấn đề: giữ nguyên; sửa; hủy bỏ bản án, quyết định của các Tòa án trước.
Hai là, nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự thuộc về các đương sự, hội đồng xét xử quyết định như thế nào phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh của các đương sự. Hội đồng xét xử có thể chấp nhận toàn bộ yêu cầu hay chỉ một phần yêu cầu của các đương sự. Chính vì vậy, việc pháp luật tố tụng không quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm chính là để hội đồng xét xử sơ thẩm có thể linh hoạt, ứng biến khi quyết định trong từng trường hợp cụ thể, tùy thuộc vào các tình tiết và diễn biến của vụ án.
Tuy nhiên, ở một góc độ nào đó, việc pháp luật tố tụng không quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm dường như đã tạo ra một khoảng trống, một sự không chặt chẽ, một tâm lý không yên tâm. Như vậy, sẽ không phải là thừa nếu pháp luật tố tụng có điều luật quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm. Tất nhiên, không thể quy định cụ thể cho mọi trường hợp, nhưng nếu nhà làm luật quan tâm tới vấn đề này thì đó là điều hợp lý. Theo chúng tôi, cần quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm là: chấp nhận toàn bộ yêu cầu của đương sự; chấp nhận một phần yêu cầu của đương sự; không chấp nhận yêu cầu của đương sự.
1.2. Cấp phúc thẩm (cấp thứ hai)
Cấp phúc th...