chy_yeu

New Member

Download Tiểu luận Ấn Độ - Từ bán lẻ trí thức tiến lên đại học đẳng cấp quốc tế miễn phí





Thành công lớn nhất của hệ thống giáo dục đại học Ấn độ cho đến nay là của các Viện Khoa học công nghệ. Ngay sau khi độc lập, Ấn độ đã đặt khoa học kỹ thuật lên hàng ưu tiên trong lịch trình phát triển kinh tế của mình. Viện Kỹ thuật Công nghệ Ấn độ đầu tiên được thành lập năm 1951 ở Kharagpur, (West Bengal) với sự hỗ trợ của UNESCO, dựa trên mô hình của MIT. Viện Kỹ thuật Công nghệ Ấn độ (IIT) thứ hai được thành lập ở Bombay (nay là Mumbai) năm 1958 với sự trợ giúp của Liên bang Xô viết thông qua UNESCO. Năm 1959, IIT Madras (nay là Chennai) được thành lập với sự trợ giúp của nước Đức; và IIT Kanpur với sự giúp đỡ của Tập đoàn các trường Đại học Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Anh và chính phủ UK hỗ trợ việc thành lập IIT Delhi năm 1961. Năm 1994, IIT Guwahati được thành lập hoàn toàn thông qua những nỗ lực bản địa. Năm 2001, Trường Đại học University of Roorkee được đưa vào hệ thống các trường IIT trở thành trường thứ bảy như thế.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp Ấn độ thật khó lòng cạnh tranh được với các công ty đa quốc gia, nếu họ không có được một lực lượng khoa học gia có tầm cỡ. Hệ thống giáo dục đại học yếu kém trở thành gót chân Achilles của đất nước này. Ấn độ đang tụt hậu khá xa không chỉ so với các cường quốc giáo dục đại học Hoa Kỳ và châu Âu mà còn so với các đối thủ truyền thống của họ: Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc. Chỉ rất gần đây thôi, từ tháng 6 năm 2007, vấn đề xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế (ĐHĐCQT) mới được đặt ra và chính phủ Ấn độ mới bắt đầu lên kế hoạch xây dựng 14 trường như thế. Nghiên cứu bối cảnh của Ấn độ và những chiến lược nhằm xây dựng ĐHĐCQT của họ là một việc rất có ý nghĩa đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng các đại học có chất lượng quốc tế.
Khái quát về giáo dục đại học ở Ấn độ
  Ấn độ là nước có số lượng sinh viên đại học đứng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Hoa Kỳ, nhưng có rất ít trường hay khoa, ngành, hay trung tâm nghiên cứu có chất lượng cao. Với 323 trường đại học và 14.050 trường cao đẳng, Ấn độ sản xuất ra 2,5 triệu người tốt nghiệp đại học hàng năm, trong đó có 350.000 kỹ sư, gấp đôi số lượng kỹ sư mà Hoa Kỳ đào tạo ra. Tuy vậy, chỉ có 10% những người trong độ tuổi là được học đại học, một tỉ lệ khá thấp theo tiêu chuẩn quốc tế, nếu so với con số trên 50% ở các nước phát triển công nghiệp hóa và 15% ở Trung Quốc
Trong 323 trường đại học hiện nay của hệ thống giáo dục đại học Ấn độ, có 178 trường tổng hợp thuộc các tiểu bang và 18 trường tổng hợp thuộc trung ương, 18 trường y, 40 trường nông nghiệp, 52 trường “được xem như đại học” (deemed-to-be-universities), 12 trường có tầm quan trọng lớn với quốc gia, và 5 trường được thành lập theo quy định của tiểu bang. Các trường đại học này cùng với 13,150 trường cao đẳng và 900 trường bách khoa đang sử dụng 411.600 giảng viên và đào tạo 8,4 triệu sinh viên. Tuy nhiên, thật nghịch lý là hệ thống giáo dục đại học Ấn độ lớn như thế và đã trải qua lịch sử hơn 150 năm phát triển nhưng khó lòng có thể tìm thấy một trường đại học nghiên cứu. Những nhà khoa học Ấn độ nổi tiếng thế giới có thể đếm được trên đầu ngón tay: chỉ ba người đạt giải Nobel trong khoa học và một người trong kinh tế. Hầu hết những nhà khoa học tài năng và có uy tín của Ấn độ đang làm việc ở nước ngoài. Các tạp chí khoa học ở Ấn độ không được xem là có chất lượng quốc tế và có rất ít những công bố khoa học của người Ấn trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín.  
Ấn độ gần như không có những trường đỉnh cao, hầu hết các trường chỉ vận hành với một chất lượng rất khiêm tốn theo kiểu “bán lẻ tri thức” (“retailing knowledge”). Phần lớn hệ thống đào tạo ở các nước có hình chóp: một số ít trường chất lượng cao (top-tier) ở trên đỉnh của hệ thống, còn lại là số lớn những trường có tính chất “đại chúng” nằm ở phần đáy. Ấn độ có rất ít những trường nổi bật ở đỉnh cao như thế. Không một trường nào đủ mạnh để đứng vững trên đỉnh hình chóp, vì phần lớn mạnh điểm này thì lại yếu điểm khác.  Những trường khá nhất là Indian Institutes of Technology (IITs), the Indian Institutes of Management (IIMs), India Institute of Medical Sciences và Tata Institute of Fundamental Research. Các trường đại học Ấn độ, trừ vài ngoại lệ, đang trở thành quá lớn, được cung cấp tài chính quá ít, và rất khó kiểm soát. Đầu tư vào thư viện, phòng nghiên cứu, hạ tầng thông tin…đều ở mức thấp khó lòng thực hiện việc nghiên cứu và đào tạo ở trình độ cao. Số lượng giảng viên bán thời gian (part-time) tăng lên và gần như có rất ít cơ hội được bổ nhiệm vào những vị trí biên chế và cơ hữu, ở nhiều trường những vị trí ấy vẫn cứ y như thế nhiều năm không thay đổi. Tình hình này đã góp phần làm nhụt nhuệ khí của giới giảng viên và cán bộ nghiên cứu cũng như khiến họ thiếu gắn bó với nhà trường. Quản trị đại học yếu kém khiến hoạt động nghiên cứu và giảng dạy hiếm khi được đánh giá. Các trường có rất ít hình thức khuyến khích để giảng viên phấn đấu đạt đến chất lượng cao nhất. “Bán lẻ tri thức” là cụm từ tuyệt đối chính xác để miêu tả giáo dục đại học Ấn độ: đào tạo thực hành là chức năng chủ yếu, có rất ít nghiên cứu đỉnh cao được thực hiện, nghiên cứu khoa học cơ bản lại càng không.
Cũng giống như những nước đang phát triển khác như Trung Quốc, Malaysia, Việt Nam, Ấn độ cũng đang phải đương đầu với hiện tượng mở rộng số lượng kéo theo nhiều vấn đề về chất lượng đào tạo. Có thể minh họa điều này qua vài con số về đào tạo sau đại học: trong hai thập kỷ qua, tính trung bình các trường đại học Ấn đã sản xuất ra 10.000 tiến sĩ mỗi năm. Năm 1999-2000 có 11.296 tiến sĩ ra lò, trong đó có 37,89% trong ngành khoa học nhân văn và 34,39% trong khoa học tự nhiên, còn lại là kinh tế. Trong số đó 72% là giảng viên ở các trường đại học. Sở dĩ như thế vì bằng tiến sĩ hiện nay là yêu cầu bắt buộc để giảng dạy ở đại học, những giảng viên chưa có bằng được tạo điều kiện thời gian để làm tiến sĩ. Tuy vậy, hệ thống này đang nhấn mạnh đến bằng cấp thay vì quan tâm đến chất lượng thực sự, cho nên nhìn vào danh sách các đề tài luận văn tiến sĩ, có thể thấy phần lớn các đề tài mang tính chất điều tra khảo sát hay lặp lại những đề tài đã cũ, không có mấy liên quan đến những vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn đang đặt ra. Đối với nhiều người, lấy được tấm bằng tiến sĩ là chấm hết việc nghiên cứu. Luận án của họ nằm phủ bụi trong thư viện hay trung tâm lưu trữ. Bởi vậy khó mà nói rằng số lượng đào tạo sau đại học của Ấn độ là một chỉ báo của trình độ phát triển cao trong nghiên cứu.
Một vấn đề khác ở Ấn độ là tình trạng chảy máu chất xám. Nhiều người được đào tạo tốt trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã không lựa chọn con đường đóng góp cho sự phát triển khoa học công nghệ ở Ấn. Gần một nửa sinh viên tốt nghiệp những trường công nghệ tốt nhất của Ấn đã ra nước ngoài để tiếp tục học ngay sau khi tốt nghiệp, và phần lớn đã không trở về cố hương.  86% sinh viên Ấn lấy bằng đại học trong các ngành khoa học công nghệ ở Hoa Kỳ đã không trở về ngay sau khi học xong. Sự quyến rũ của những vị trí nghề nghiệp tại nước ngoài cũng như của thành phần kinh tế tư nhân càng khiến các trường khó lòng giữ được những người tài giỏi nhất trụ lại với việc giảng dạy.
Ở Ấn độ, rất ít người quan tâm suy nghĩ một cách sáng tạo về giáo dục đại học. Không có bộ môn nghiên cứu về giáo dục đại học ở Ấn. Không có một trung tâm nghiên cứu độc lập về giáo dục đại học nào tồn tại ở Ấn, trong lúc ở Trung Quốc có hàng chục trung tâm nghiên cứu giáo dục đại học và nhiều tổ chức chính phủ liên quan đến việc hoạch định chính sách giáo dục đại học. Các nhà lãnh đạo ngành giáo dục và chính phủ Ấn xem ra hài lòng v
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top