Download Tiểu luận Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới miễn phí
MỤC LỤC
I. HIỂU BIẾT VỀ ĐỊNH KIẾN GIỚI 1
1. Khái niệm định kiến giới 1
2. Đặc điểm của định kiến giới 1
3. Những hình thức biểu hiện của định kiến giới 3
3.1. Văn học dân gian: phía sau giá trị văn hóa là những định kiến giới 3
3.2. Báo in: Một sự duy trì định kiến giới hợp pháp 5
3.3. Thông điệp từ truyền hình: Sự lạm dụng hình ảnh người phụ nữ 7
II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỊNH KIẾN GIỚI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI 8
1.Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình 9
1.1. Trong phân công lao động trong gia đình 9
1.2. Trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong gia đình 10
1.3. Trong việc quyết định các vấn đề trong gia đình 10
1.4.Trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và nuôi dạy con cái 11
2. Ảnh hưởng của định kiến giới trong việc thực hiện bình đẳng giới trong đời sống xã hội 11
3. Ảnh hưởng của định kiến giới đến lĩnh vực chính trị 12
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Định kiến cho phép ta đánh giá người khác mà không cần nhớ chính xác những gì là căn cứ để chúng ta đưa ra những đánh giá đó. Với sự “trợ giúp” của định kiến giới, chúng ta có thể đánh giá về một cá nhân dựa vào việc nhận biết giới tính của họ mà không cần tập trung quan tâm lắm đến người đó. Về lâu dài chúng ta dễ chấp nhận những quan điểm đó là có cơ sở chắc chắn trên thực tế vì chúng ta không nhận thức rằng định kiến đã góp phần tạo ra các cơ sở đó.Thứ ba, chúng ta thường phản ứng với người đối thoại một cách không chủ ý theo cách chúng ta chỉ lọc ra những hành vi khẳng định các định kiến của ta về họ. Hãy tưởng tượng một phụ nữ được phỏng vấn vào vị trí giám đốc điều hành của công ty tin học. Nếu người phỏng vấn tin rằng phụ nữ không có khả năng quản lý công ty, nhất là một công ty mà dường như là “độc quyền” của nam giới thì sẽ đưa ra những câu hỏi khó hơn cho các ứng cử viên nữ và sẽ chỉ trích câu trả lời của họ nhiều hơn. Do đó, ứng cử viên nữ sẽ có thể lúng túng hơn khi trả lời và làm cho các câu trả lời của họ kém thành công hơn so với các ứng cử viên nam dù trong trường hợp này họ không hè kém khả năng so với ứng viên nam. Kết quả là người phỏng vấn đã khiến ứng viên nữ hành động theo cách phù hợp với những định kiến của người phỏng vấn rằng phụ nữ có trình độ kém hơn nam trong quản lý một công ty tin học.
Thứ tư, vì định kiến giới là một kiểu thái độ nên không phải định kiến lúc nào cũng được phản ánh công khai trong hành động. Trong rất nhiều trường hợp cá nhân mang định kiến nhận ra rằng mình không thể biểu lộ nó một cách trực tiếp, do có rất nhiều lý do ngăn cản họ thực hiện điều này một cách rộng rãi. Ví dụ như các luật lệ, áp lực xã hội, nỗi sợ hãi bị trả thù hay sợ bị người khác đánh giá về nhân cách. Những “rào cản” này làm cho không ít cá nhân mang định kiến chỉ dám bày tỏ thái độ của mình mà không thể hiện hành vi định kiến đối với đối tượng họ muốn chống đối – dù là có ý thức hay vô thức. Nhưng khi không còn những rào cản và sự kiềm tỏa như vậy thì những niềm tin, cảm giác tiêu cực thắng thế và nó được thể hiện một cách công khai và trở thành sự phân biệt đối xử.
Có thể thấy, về nội dung, định kiến giới được xem là một trong những biểu hiện của bất bình đẳng giới. Mặt khác, về chức năng, định kiến giới có chức năng xác lập và duy trì những bất bình đẳng giới trong thực tế. Định kiến giới ban đầu có thể xuất phát từ một nhận xét hay quan niệm về một sự việc, hiện tượng thực tế nào đó. Định kiến giới trở thành sâu sắc hơn khi hiện tượng thực tế đã biến đổi nhưng những niềm tin, những khuôn mẫu về giới vẫn giữ nguyên – trở thành những quan niệm hay chuẩn mực cứng nhắc, không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra.
3. Những hình thức biểu hiện của định kiến giới
3.1. Văn học dân gian: phía sau giá trị văn hóa là những định kiến giới
Những giá trị văn hóa dân tộc tốt đẹp thường được lưu truyền lại trong văn học dân gian, dưới các hình thức như ca dao, tục ngữ, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích, những tích tuồng, những câu hát ví… Đằng sau những giá trị văn hóa tốt đẹp này vẫn còn chứa đựng những khuôn mẫu giới và định kiện giới. Điều này thực sự nguy hiểm bởi hai lẽ.
Thứ nhất, sau cái bóng là giá trị văn hóa, những khuôn mẫu và định kiến giới này trở thành “bình thường hóa”. Vì vậy nó khó được nhận biết. Ngay cả khi được nhận biết, nó cũng khó bị xóa bỏ bởi cái gọi là “Giữ gìn các giá trị văn hóa”.
Thứ hai, văn hóa dân gian thường được con người tiếp xúc từ rất nhỏ thậm chí từ khi mới lọt lòng qua những câu hát, lời hò. Sự tiếp thu định kiến giới trong ca dao, hò vè của trẻ nhỏ một cách tự động đã làm hạn chế sự phân tích, sự phê phán của chúng ta ở tuổi trưởng thành để loại bỏ các khuôn mẫu giới không phù hợp. Vì lí do này, cha mẹ và thầy cô giáo là những người gần gũi nhất có thể giúp trẻ loại bỏ những khuôn mẫu giới trong văn hóa dân gian.
Ví dụ, hát ru là hình thức văn hóa dân gian đầu tiên trẻ được tiếp cận. Nhiều người chắc vẫn nhớ câu hát ru: “Trai thời đọc sách ngâm thơ, gái thời giữ việc trong nhà…” hay “Phận gái yếu liễu đào tơ, lấy chồng thì phải..” v.v…Và còn nhiều câu hát ru chứa đựng các hình mẫu giới tính. Trong các câu hát ru, người ta thường ca ngợi vai trò người phụ nữ trong gia đình, như biết làm “cơm dẻo, canh ngọt”, chăm sóc chồng con chu toàn…, mà hiếm thấy hình ảnh người phụ nữ biết phân đấu để thành đạt ngoài xã hội. Cũng như thế, hình mẫu người đàn ông tìm thấy trong các câu hát ru thường là người biết gánh vác các việc lớn trong gia đình, có chí tiến thủ… mà hiếm thấy hình ảnh người chồng biết chia sẻ với vợ trong công việc và trong các quyết định nội trợ gia đình.
Trong kho tàng ca dao Việt Nam, có nhiều hình mẫu của nam giới và phụ nữ trong các câu ca dao, trong đó phụ nữ bị nhắc đến với nhiều nét “tính xấu” hơn nhiều lần so với nam giới. Nam giới thường được nhắc đến với những nét “tính xấu” như: lười nhác, ngốc nghếch, xấu về ngoại hình và cả chuyện không biết làm việc lớn mà chỉ biết… “làm bếp”. Trong khi đó, người phụ nữ được nhắc đến với những “tính xấu” đa dạng hơn nhiều: “nỏ” mồm, lẳng lơ, hay ăn vụng, không chồng mà chửa, lười nhác, không biết đẻ còn, không biết dạy con, không biết lo việc nhà, không hiếu thuận với cha mẹ chồng… Tất nhiên vấn đề cần bàn không chỉ là sự tồn tại của một số câu ca dao mang những khuôn mẫu giới mà là khi người ta sử dụng nó để "chỉ trích” một ai đó theo những khuôn mẫu giới này. Trong thực tế, các câu dao luôn là lời “trích dẫn” có ‘trọng lượng” để nhận xét về hành động của một người nam giới hay phụ nữ.
Những hình mẫu giới bắt gặp trong các câu hát ru, các câu ca dao đã phản ánh thực tế của những thế kỷ trước. Giờ đây, trước những biến chuyển xã hội, những hình mẫu này đã không còn phù hợp và ít nhiều gây bất lợi trong việc hình thành các vai trò giới nhất là với trẻ nữ. Ảnh hưởng của những khuôn mẫu giới tiêu cực là không thể tránh khỏi. Những khuôn mẫu giới trong quá khứ không chỉ ảnh hưởng đến trẻ nhỏ mà chắc chắn còn góp phần duy trì, củng cố niềm tin dập khuôn của người lớn.
3.2. Báo in: Một sự duy trì định kiến giới hợp pháp
Một trong những nhóm người tiếp cận đầu tiên với vấn đề giới ở Việt Nam phải kể đến là các nhà báo. Vì vậy, về mặt lí thuyết họ là và cần là những người nắm bắt tốt các trào lưu phát triển vấn đề giới ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong những thực tế còn rất nhiều những định kiến giới được duy trì trong nội dung các bài báo. Có hai lý do chính cho tình trạng này.
Thứ nhất, nhiều người vẫn còn những niềm tin sai lầm khi tách biệt vai trò của phụ nữ, đâu là vai trò của nam giới. Đây là thực tế không tránh khỏi, khi các khuôn mẫu giới hầu như là “vô hìn...
Tags: kịch bản về định kiến giới và khuôn mẫu giói, tiểu kuận định kiến giới, bài vè về xóa bỏ định kiến giới, định kiến giới trong ca dao việt nam, các loại khuôn mẫu giới, tiểu luận về phân tích vai trò của giới định kiến giới trong ca dao tục ngữ dân tộc Mông, định kiến tiểu luận, tiểu luận khuôn mẫu giới