taiemmatoinhuthe174
New Member
Download Tiểu luận Cách thức xác định các tình tiết trong vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động miễn phí
Thông thường hiện nay các thẩm phán được phân công giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, các vụ án về lao động nói riêng sẽ giải quyết vụ án ở giai đoạn hoà giải. Nếu vụ án được giải quyết ở hoà giải thì vụ việc sẽ đơn giản đi rất nhiều.Sẽ không mất thời gian của toà, của đương sự tham gia vụ án. Do đó, khi tiến hành thụ lý vụ án hình sự, các thẩm phán nên hướng cho các đương sự giải quyết vụ án ở giai đoạn hoà giải.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
ao động thường không thực hiện hay thực hiện không đầy đủ các quyền lợi khi cho người lao động nghỉ việc.Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.
Vụ án lao động: là việc toà án nơi có thẩm quyền (toà án nơi bị đơn có trụ sở hay nơi đăng ký hoạt động) tiến hành thụ lý đơn khởi kiện về tranh chấp lao động của người lao với người sử dụng lao động (hay ngược lại). Sau đó căn cứ vào các quy định của pháp luật lao động và các quy định của pháp luật khác để đưa ra phán quyết để xem hành vi của người đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng hay sai so với quy định của luật lao động.
1.2. Các quy định của pháp luật
Hiện nay các quy định của pháp luật lao động chủ yếu nằm trong bộ luật lao động, ngoài ra còn có các quan hệ khác có liên quan đến lao động như: quan hệ học nghề, quan hệ bảo hiểm xã hội… Bộ luật lao động của nước ta lần đầu tiên là năm 1994, tiếp đó đến năm 2002 chúng ta tiếp tục sửa đổi bổ sung, và các năm 2006, 2007 chúng ta tiếp tục sửa đổi bổ sung để hoàn thiện .
Để hướng dẫn các điều khoản trong luật lao động, chính phủ đã ban hành ra nhiều nghị định hướng dẫn, và các bộ nghành có liên quan, chủ yếu là Bộ lao động –thương binh và xã hội đã ban hành ra các thông tư quyết định để hướng dẫn các nghị định của chính phủ.
Nghị định 39/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về việc làm ; Nghị định 81/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ Luật Lao động về người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài; Nghị định 105/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam…
1.3. Các tình tiết cần xác định trong vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
1.3.1 Chọn luật áp dụng, chọn loại tranh chấp mà nguyên đơn yêu cầu toà án giải quyết
Trong bất kỳ vụ án lao động nào cũng vậy, cũng cần xác định được luật cần áp dụng. Đó là vần đề gì đang còn tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động, lúc này thẩm phán thụ lý vụ án phải xác định được các yêu cầu gì mà nguyên đơn yêu cầu làm rõ. Tức là phải chọn được cần áp dụng các điều khoản nào trong bộ luật lao động hay luật khác để làm căn cứ cho công tác ngiên cứu vụ án. Về hình thức, theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự năm 2003 tại Điều 31 thì Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
- Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoà giải không thành hay không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở:
Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hay về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động;
Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
- Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết mà tập thể lao động hay người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, bao gồm:
Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác;
Về việc thực hiện thoả ước lao động tập thể;
Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
- Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
1.3.2. Xác minh thu thập chứng cứ
Toà án tiên hành xác minh thu thập chứng cứ thông qua các đương sư tự nộp cho toà và trong quá trình điều tra. Luật TTDS không quy định việc cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ, mà các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Các đương sự cũng có quyền làm đơn để yêu cẩu toà án thu thâp giúp chứng cứ khi tự mình không có kảh năng thu thập chứng cứ
1.3.3. Căn cứ đơn phương chấm dứt lao động (nội dung pháp luật)
Khi thụ lý hay được phân công giải quyết một vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, thẩm phán phải đối chiếu xem các căn cứ trong quyết định cho ngưòi lao động nghỉ việc mà người sử dụng lao động dùng có hợp pháp hay không. Bất kỳ việc cho người lao động nghỉ việc nào mà không dựa vào các quy định của pháp luật cũng đều là sai trái.
Theo quy định của pháp luật lao động thì người sử dụng lao động có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động trong trường hợp sau: “Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng (Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động là không hoàn thành định mức lao động hay nhiệm vụ được giao do yếu tố chủ quan và bị lập biên bản hay nhắc nhở bằng văn bản ít nhất hai lần trong một tháng, mà sau đó vẫn không khắc phục; Mức độ không hoàn thành công việc được ghi trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hay nội quy lao động của đơn vị; )
Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật lao động này;
Người lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng ốm đau đã điều trị sáu tháng liền và người lao động làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hay theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng ốm đau đã điều trị quá nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khoẻ của người lao động bình phục, thì được xem xét để giao kết tiếp hợp đồng lao động;
Do thiên tai, hoả hoạn hay những lý do bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;(Lý do bất khả kháng khác là trường hợp do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên, do địch hoạ, do dịch bệnh không thể khắc phục được dẫn tới việc phải thay đổi, thu hẹp sản xuất kinh doanh)
Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động ”
Việc người sử dụng lao động đơn phương chấ...