giothangbay

New Member

Download Tiểu luận Chức năng lập pháp của Quốc Hội - Thực trạng và hướng hoàn thiện miễn phí





Mục Lục
Lời Mở Đầu
Phần Nội Dung
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUYỀN LẬP PHÁP QUA CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC
II. Chức năng lập pháp của quốc hội việt nam
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN LẬP PHÁP
IV. Thực trạng hoạt động lập pháp của quốc Hội và một số biện pháp nhằm nâng cao hoạt động lập pháp của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay.
1. Thực trạng hoạt động lập pháp của Quốc Hội.
2. Một số phương hướng nhằm nâng cao hoạt động lập pháp của Quốc hội
a. Đổi mới và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Quốc hội .
b. Nâng cao chất lượng của Đại biểu Quốc hội.
c. Cải tiến và nâng cao chất lượng các kỳ họp Quốc hội .
d. Đổi mới hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
e. Tăng cường bộ máy giúp việc cho Quốc hội và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ soạn thảo
g. Đổi mới hoạt động lập, thực hiện chương trình xây dựng luật.
h. Tiếp tục đổi mới về thủ tục, trình tự của việc chuẩn bị và ban hành luật.
n. Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động lập pháp
m. Đảm bảo kinh phí cho hoạt động lập pháp.
k. Đảm bảo sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học vào hoạt động lập pháp.
x. Đổi mới hoạt động ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật.
 
Kết Luận
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

việc tỡm hiểu “Chức năng lập pháp của quốc hội thực trạng và phương hướng hoàn thiện” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Phần Nội Dung
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUYỀN LẬP PHÁP QUA CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC
Cho đến nay vẫn chưa có một kết luận cụ thể nào về thời điểm ra đời quyền lập pháp. Nhưng chắc chắn dù hiểu quyền lập pháp theo quan điểm nào đi chăng nữa thỡ quyền lập phỏp cũng do nhà nước quy định và pháp luật bảo đảm thực hiện nên ta có thể khẳng định: sự ra đời quyền lập pháp gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, bởi bất cứ một nhà nước nào cũng cần xây dựng một hệ thống pháp luật và những thiết chế đảm bảo cho hệ thống pháp luật đó được thực hiện.
Tuy quyền lập pháp luôn đi cùng với nhà nước và pháp luật nhưng quan niệm về quyền lập pháp ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi kiểu nhà nước khác nhau là khụng giống nhau.
Thời kỡ đầu khi xuất hiện nhà nước và pháp luật, quyền lực nhà nước được tổ chức hết sức đơn sơ, chủ yếu dựa vào sự cưỡng bức của giai cấp chủ nô với tầng lớp nô lệ. Quyền lực nhà nước không được phân chia rạch rũi thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên ở một góc độ nào đó ta vẫn thấy được sự phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Ví dụ như trong bộ máy nhà nước Aten, Lamó… đại hội nhân dân là cơ quan làm luật .Như vậy, ở nhà nước chủ nô, quyền lập pháp đó xuất hiện.
Sang đến kiểu nhà nước phong kiến, quyền lực nhà nước tập trung vào trong tay nhà vua. Nhà vua là người thay mặt cho giai cấp phong kiến nắm giữ toàn bộ quyền hành. Vua là người đứng đầu triều đỡnh, nắm giữ quyền ban hành phỏp luật, tổ chức thi hành pháp luật cũng như quyền xét xử tối cao. Giúp việc cho vua là bộ máy quan lại đồ sộ ở TW và địa phương. Có thể thấy ở kiểu nhà nước phong kiến, toàn bộ quyền lực tập trung vào trong tay một người duy nhất là nhà vua. Nhà vua nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp và cả quyền tư pháp.
Bước sang thế kỉ XVII,XVIII, nhà nước tư bản ra đời cùng với sự phát triển của một loạt các học thuyết mới, tiêu biểu nhất là thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu và thuyết chủ quyền nhân dân của Rousseau, thỡ quyền lực nhà nước bước sang một giai đoạn phát triển mới, với ba quyền lập pháp , hành pháp và tư pháp được tách biệt thành từng quyền độc lập. Có thể thấy các học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước cũng như quan niệm về phân quyền đó xuất hiện từ khỏ lâu trước đó.
Vào thời kỡ đầu tiên khi nhà nước tư sản ra đời, tư tưởng tự do và các phong trào đấu tranh đũi bỡnh đẳng mạnh mẽ của nhân dân đó giỳp cho quyền lập phỏp lờn ngụi, bởi cơ quan lập pháp là cơ quan của dân, do nhân dân bầu ra, thay mặt cho nhân dân và cũng là biểu tượng của tự do và bỡnh đẳng. Thời kỡ này đánh dấu sự huy hoàng của lập pháp, khi mà nghị viện quyết định, chính phủ thi hành. Quyền lập pháp khi đó nằm trong tay nghị viện. Ở những giai đoạn phát triển sau của nhà nước tư sản, quyền lập pháp dần trở nên lép vế hơn so với quyền hành pháp. Quyền hành pháp có một ảnh hưởng to lớn đến xó hội cũng như trong hỡnh thức tổ chức quyền lực nhà nước nên người Anh gọi quyền này là thứ quyền lónh đạo quốc dân. Điều này đến ngày nay hầu như vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể
Sự phát triển của quyền lập pháp trong các nước xó hội chủ nghĩa mà tiờu biểu là Việt Nam: Trước đây do những nhận thức hạn chế mà thuyết tam quyền phân lập không được vận dụng một cách hợp lí. Trải qua một thời gian dài dưới chế độ tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế nước ta đó tụt hậu rất nhiều so với thế giới. Đứng trước sự lựa chọn phải đổi mới hay là mói mói tụt hậu, đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI đó mạnh dạn đề ra đường lối đổi mới, trong đó có sự nhận thức lại một số quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nước. Hiến pháp 1992 ghi nhận sự đổi mới tích cực đó, đó khẳng định nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vỡ dõn, quyờn lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quốc hội là cơ quan thay mặt của nhân dân, do nhân dân bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đồng thời là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Về sự hỡnh thành và phỏt triển quyền lập phỏp ở nước ta. chúng ta sé trở lại và bàn kĩ hơn ở chương 2 của luận văn.
Chức năng lập pháp của quốc hội việt nam
Có thể nói từ khi thành lập tới nay, Quốc hội nước ta luôn luôn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống chính trị. Quốc hội theo quy định của điều 83 Hiến pháp 1992, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, xét về chức năng của Quốc hội vừa là cơ quan thay mặt tối cao vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Tính thay mặt tối cao của Quốc hội được xuất phát từ trật tự hình thành, cơ cấu thành phần của Quốc hội. Quốc hội nước ta là cơ quan cao nhất do cử tri cả nước bầu ra dựa trên 4 nguyên tắc: bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín nhưng khác Hội đồng nhân dân ở chỗ Quốc hội được hình thành từ cử tri cả nước còn Hội đồng nhân đân các cấp do cử tri bầu trực tiếp nhưng chỉ là thay mặt cho nhân dân theo một đơn vị hành chính lãnh thổ và chỉ trong phạm vi đơn vị hành chính lãnh thổ đó. Bởi vậy Quốc hội là cơ quan nhà nước tập trung trí tụê toàn dân tộc bao gồm tất cả các đại biểu thay mặt cho các dân tộc, các địa phương các giới, các tôn giáo, mọi lứa tuổi và lĩnh vực; đại biểu có thể hoạt động chuyên trách hay kiêm nhiệm. Vì thế theo quy định của Hiến pháp, luật tổ chức Quốc hội 1992 trong hoạt động của mình, các đại biểu Quốc hội phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân và phải phù hợp với nguyện vọng của toàn thể cử tri cả nước, nếu đại biểu không hoàn thành nhiệm vụ cử tri hay không đủ tư cách đại biểu Quốc hội sẽ bãi miễn tư cách đại biểu Quốc hội theo điều 7 Hiến pháp năm 1992.
Song song với tính thay mặt tối cao thì tính quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội nước ta cũng được kế thừa qua bốn bản Hiến pháp. Điều này thể hiện sự nhất quán trong xây dựng Bộ máy nhà nước. Tuy nhiên chỉ Hiến pháp 1946 có cách thể hiện khác so với các bản Hiến pháp về sau theo quy định tại điều 22 Quốc hội có tên là Nghị viện.
Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức Bộ máy nhà nước của nước ta là nguyên tắc tập quyền Xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất không có sự phân chia nhưng có sự phân công hợp lý giữa ba quyền Lập pháp- Hành pháp- Tư pháp. Quan điểm này bắt nguồn từ tư tuởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là cội nguồn là chủ thể của quyền lực tuy nhiên nhân dân không thể tự nắm giữ quyền lực mà nhân dân trao cho Quốc hội - cơ quan thay mặt của nhân dân; như vậy Quốc hội không chỉ là cơ quan thay mặt của nhân dân mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quy định này hoàn toàn xuấ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top