Download Tiểu luận Cơ sở lí luận về quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân miễn phí





Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân được ghi nhận dựa trên cơ sở những truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc. Những truyền thống đó có nguồn gốc sâu xa và bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lí, môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội cụ thể nhất định. Trên nền tảng của văn hóa bản địa, Việt Nam còn tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Những yếu tố tích cực của các tôn giáo này như: việc đề cao chữ Nhân, lòng thương người trong Nho giáo; tư tưởng từ bi, bác ái của Phật giáo; tinh thần đoàn kết, hữu ái của Đạo giáo kết hợp với văn hóa bản địa đã tạo nên những truyền thống đạo đức vô cùng quý báu của dân tộc.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

BÀI TẬP NHÓM CHUYÊN ĐỀ 5
Nhóm thực hiện: Nhóm 2. CH18 - Luật Dân sự.
Đề bài tập:
Cơ sở lí luận về quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân.
Giải quyết vấn đề:
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 24 BLDS).
Một xã hội càng tiến bộ, phát triển bao nhiêu thì quyền nhân thân của cá nhân càng được pháp luật tôn trọng và mở rộng bấy nhiêu. Cùng với sự phát triển của đất nước, quyền nhân thân của cá nhân cũng ngày càng được công nhận và bảo vệ cao hơn trong pháp luật Việt Nam. Từ BLDS 1995 đến BLDS 2005, pháp luật đã mở rộng thêm quyền nhân thân của cá nhân từ 20 quyền lên thành 26 quyền nhân thân. Trong các quyền nhân thân được bổ sung có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân được ghi nhận tại Điều 33 và 34 BLDS 2005. Quyền này cũng đã được cụ thể hóa tại Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006.
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân thuộc nhóm quyền nhân thân thể hiện sự tự do của cá nhân. Việc ghi nhận quyền này trong BLDS 2005 là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội hiện đại, đáp ứng đòi hỏi của lí luận và thực tiễn.
1. Khái niệm quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân.
Điều 33 BLDS 2005 quy định như sau:
“Cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thể của mình vì mục đích chữa bệnh cho người khác hay nghiên cứu khoa học.
Việc hiến và sử dụng bộ phận cơ thể được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
Điều 34 BLDS 2005 quy định như sau:
“Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hay nghiên cứu khoa học.
Việc hiến và sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
Điều 3 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định:
Khoản 1: Mô là tập hợp các tế bào cùng một loại hay nhiều loại khác nhau để thực hiện các chức năng nhất định của cơ thể người.
Khoản 2: Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định.
Khoản 6: Hiến mô, bộ phận cơ thể người là việc cá nhân tự nguyện hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hay sau khi chết.
Điều 5 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định:
“Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác.”
Như vậy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý, họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có thể bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
2. Cơ sở lí luận của quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân.
Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân trọng BLDS 2005 không chỉ đáp ứng nhu cầu của thực tiễn xã hội mà còn phù hợp với các quan điểm lí luận về quyền con người nói chung và quyền nhân thân nói riêng, đồng thời không đi ngược lại truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc. Việc ghi nhận quyền này xuất phát từ những cơ sở lí luận sau đây:
2.1. Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân xuất phát từ nhu cầu về việc ghi nhận và mở rộng hơn nữa quyền tự do của con người trong xã hội hiện đại.
2.1.1. Lí luận về quyền tự do của con người.
Tự do của con người là khả năng của con người có thể hành động theo đúng ý chí, nguyện vọng của mình, trên cơ sở nhận thức được quy luật của tự nhiên và xã hội. Tự do của con người là sản phẩm của lịch sử. Có thể nói, lịch sử nhân loại thực chất là một cuộc kiếm tìm tự do. Mỗi bước tiến của xã hội là một bước tiến tới tự do rộng hơn.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, nhu cầu đảm bảo và mở rộng hơn nữa các quyền tự do của con người đang ngày càng gia tăng. Con người chỉ thực sự tự do khi được đảm bảo đầy đủ các quyền con người. Và quyền con người cũng chỉ được bảo vệ một cách toàn diện khi nó được pháp luật ghi nhận.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền con người, quyền của cá nhân trong đó có quyền nhân thân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Một xu hướng đang diễn ra phổ biến hiện nay là các giá trị nhân thân ngày càng được đề cao và được ghi nhận ngày càng nhiều hơn trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế. Sở dĩ như vậy vì xã hội càng phát triển, các quan hệ xã hội càng đa dạng, phức tạp, nhu cầu của con người cũng ngày một tăng lên cả về vật chất và tinh thần, đặc biệt là nhu cầu về tinh thần.
Vì vậy, việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của các cá nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, quyền hiến của cá nhân không phải là quyền tự do tuyệt đối, không có giới hạn. Việc hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân cần được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật.
Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác trong BLDS 2005 đã mở rộng quyền tự do của con người. Con người có quyền tự do định đoạt việc hiến mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống và hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết. Việc ghi nhận này là hoàn toàn cần thiết, phù hợp với xu thế chung của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, quyền này không phải là tuyệt đối mà phải tuân theo quy định của pháp luật. Việc hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân chỉ được thực hiện vì mục đích chữa bệnh cho người khác hay nghiên cứu khoa học và phải tuân theo trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định. Quy định như vậy nhằm loại trừ hành vi lợi dụng quyền này để thực hiện nhằm mục đích thương mại.
2.1.2. Lí luận về quyền được sống của con người.
Con người là giá trị cao quý nhất, là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật, tất cả là vì con người và cho con người, trong đó, quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ sở để thực hiện các quyền con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền sống cho con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa bệnh của việc hiến mô, bộ phận cơ thể ng
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top