anhlaknock_out

New Member

Download Tiểu luận Hoàn thiện chế độ pháp lý về xác lập hợp đồng miễn phí





Giải pháp trong luật của các nước: Luật của Pháp và luật Anh - Mỹ có những lựa chọn rất khác biệt về giải pháp cho bài toán nhận dạng động cơ giao kết.
Về phương diện học thuyết có thể hình dung một hệ thống pháp lý về nghĩa vụ dựa vào một quy tắc đơn giản mang tính nguyên tắc: nghĩa vụ được xác lập, vì chủ thể đã cam kết một cách tự nguyện. Người ta không cần và cũng không có quyền tìm hiểu tại sao chủ thể lại muốn xác lập nghĩa vụ. Nói khác đi, xác lập nghĩa vụ được coi là một hành vi trừu tượng (abstract act).
Thực ra, không có hệ thống pháp lý tiêu biểu nào áp dụng lý thuyết nghĩa vụ trừu tượng như là giải pháp nguyên tắc.
Trong luật của Pháp có lý thuyết về nguyên nhân (cause) của hợp đồng (9). Tư tưởng chủ đạo là: mọi nghĩa vụ kết ước đều phải có nguyên nhân và nguyên nhân phải không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, thì nghĩa vụ kết ước mới có giá trị. Bởi vậy, hợp đồng mua bán một căn nhà có thể bị tuyên bố vô hiệu nếu có đủ bằng chứng cho thấy việc mua nhà nhằm mục đích xây dựng kho chứa hàng lậu thuế hay nhà chứa mại dâm.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

đồng, và các điều kiện riêng đối với hợp đồng. Về phương diện khoa học luật, có thể tiếp cận các điều kiện này theo một góc nhìn khác, cho phép phân chia các điều kiện thành hai nhóm: nội dung và hình thức.
1. Điều kiện về nội dung
1.1. Ý  chí
1.1.1. Sự tồn tại của ý chí
Đề nghị và chấp nhận đề nghị. Điều chắc chắn là không thể có hợp đồng một khi ít nhất một bên không hề mong muốn giao kết. Sự gặp gỡ của ý chí là điều kiện để một hợp đồng được xác lập. Thế nhưng, có điều kiện còn tiên quyết hơn nữa, đó là ý chí giao kết phải hiện hữu. Luật của Pháp, của Anh - Mỹ, nói chung, của nhiều nước tiền tiến thừa nhận rằng sự hiện hữu của ý chí chỉ được ghi nhận một khi nó được bộc lộ ra ngoài và ở trong tình trạng có thể được người khác nhận biết. Luật Việt Nam hiện hành, vận dụng kinh nghiệm của các nước, có xây dựng các khái niệm về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để mô tả và điều chỉnh quá trình bộc lộ đi đến sự gặp gỡ ý chí của các bên trong quan hệ kết ước.
Tuy nhiên, luật Việt Nam không thừa nhận tính pháp lý của đề nghị giao kết ra công chúng (public offer). Điều đó cũng có nghĩa rằng, ngay cả trong trường hợp đề nghị giao kết đã có đầy đủ nội dung của một hợp đồng và có ghi rõ thời hạn được duy trì để chờ được chấp nhận, người đề nghị vẫn có quyền huỷ bỏ hay rút lại đề nghị mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý, nếu đề nghị này được gửi rộng rãi cho mọi người chứ không nhắm đến một địa chỉ nào xác định. Với giải pháp này, người làm luật tỏ ra quá nuông chiều, dễ dãi đối với người đề nghị chuyên nghiệp, tức là các thương nhân, trong mối quan hệ giao tiếp với người tiêu dùng: điều này không có lợi cho việc xây dựng, phổ biến ý thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR)(3).       
Riêng đối với đề nghị giao kết có địa chỉ xác định, thì luật có vẻ muốn buộc người đề nghị gìn giữ cam kết trong một thời hạn nào đó. Bằng chứng là có quy định chỉ thừa nhận việc rút lại hay thay đổi đề nghị trong trường hợp người được đề nghị nhận được thông báo rút lại hay thay đổi đề nghị trước hay cùng thời điểm với việc nhận lại đề nghị. Nhưng thái độ của người làm luật không dứt khoát; bởi vậy, người ta không biết làm thế nào để giải thoát người đề nghị trong trường hợp người được đề nghị đã nhận được một đề nghị không có thời hạn xác định, còn thông báo rút lại đề nghị thì chưa tới nơi…         
Mặt khác, một khi đề nghị có nêu rõ thời hạn hiệu lực, luật Việt Nam chỉ dự kiến khả năng yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn đề nghị (Điều 390 khoản 2). Điều đó có nghĩa rằng, nếu bên đề nghị không giao kết với ai khác nhưng cũng không muốn giao kết với bên được đề nghị nữa, thì cũng không có quyền hủy bỏ đề nghị và, bởi vậy, một khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị trong thời hạn, bên đề nghị có thể bị đặt vào tình trạng buộc phải giao kết (?). Luật chưa rõ ở điểm này.                    
1.1.2. Ý chí bộc lộ hay ý chí tiềm ẩn?
Ý chí thực: cũng như ở Pháp, người làm luật Việt Nam chấp nhận quy tắc theo đó, trong trường hợp hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì phải dựa vào ý chí chung của các bên để giải thích hợp đồng (Điều 409 khoản 1). Nguyên tắc tôn trọng ý chí thực còn được nhấn mạnh tại khoản 7 của điều luật: trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng, thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng (4).
Vấn đề là làm thế nào để xác định ý chí thực của các bên? Tất nhiên luật không thể vạch ra các tiêu chí khách quan mà người ta phải dựa vào để nhận dạng ý chí thực: nếu người làm luật xây dựng một bộ tiêu chí như thế, thì cái gọi là ý chí thực, suy cho cùng, lại là ý chí được người làm luật gọi là thực, chứ chưa hẳn là ý chí đích thực của các bên. Giải pháp tốt nhất là thừa nhận cho thẩm phán quyền dựa vào các chứng cứ được trưng ra để nhận dạng ý chí thực, tuỳ theo trường hợp.    
Phạm vi áp dụng giải pháp: luật viết, khi giải quyết vấn đề ý chí bộc lộ hay ý chí tiềm ẩn, chỉ ghi nhận trường hợp cần giải thích hợp đồng, nghĩa là khi có sự tranh cãi về nội dung của một hợp đồng có thật. Thực ra, việc xác định ý chí chung để dùng làm căn cứ giải thích hợp đồng sẽ trở nên vô nghĩa một khi theo ý chí chung của các bên thì sẽ không có hợp đồng. Bởi vậy, cần có một quy định dựa vào ý chí chung của các bên áp dụng cho trường hợp có tranh cãi về sự tồn tại hay không tồn tại của hợp đồng.  
Vả lại, có những trường hợp theo đúng ý chí chung, hoàn toàn tự nguyện, thì chỉ có một hợp đồng bất bình đẳng mà bên ở vị trí bất lợi thường cũng là bên thua kém về thực lực kinh tế và kinh nghiệm trong giao kết. Đó không hẳn là một loại giao dịch xác lập dựa trên sự lừa dối của một bên đối với bên kia. Đơn giản, bên mạnh hơn và có kinh nghiệm không tội vạ gì chủ động đề nghị ràng buộc mình vào những nghĩa vụ phiền toái; còn bên yếu hơn và non kinh nghiệm, thì không biết, không nghĩ ra được phải làm gì để có được một giao kèo tốt nhất cho mình.
Trong trường hợp này, người làm luật ở các nước tiên tiến thường chủ động can thiệp bằng cách ràng buộc bên mạnh hơn vào những nghĩa vụ đương nhiên đối với bên kia (5). Nghĩa vụ kết ước loại này có thể hình thành hoàn toàn không theo ý chí chung của các bên; nhưng sự áp đặt là cần thiết để tái lập sự cân bằng vốn đã mất đi do sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế và trình độ hiểu biết chuyên môn của các bên giao kết. Ví dụ điển hình là các nghĩa vụ thông tin, bảo đảm an toàn của nhà sản xuất, cung ứng, người hoạt động chuyên nghiệp trong mối quan hệ giao kết với người tiêu dùng bình thường.    
1.2. Sự xác định
Luật thực định: Có vẻ như luật Việt Nam cũng thừa nhận rằng các thoả thuận kết ước phải xác định rõ ràng các đối tượng mới được coi là có giá trị. Chẳng hạn, hợp đồng mua bán phải có tài sản bán được chỉ định rõ và giá bán xác định hay có thể được xác định.
Ở các nước tiên tiến, việc giao kết hợp đồng có thể có đối tượng là tài sản sẽ có trong tương lai. Loại hợp đồng này được xếp thành hai nhóm:
i. Hoặc, đó là hợp đồng có đối tượng giao hoán, được người La Mã gọi là venditio rei speratae (bán vật được trông đợi): các bên nhất trí về việc giao kết liên quan đến một vật chưa xuất hiện, nhưng các nghĩa vụ chỉ phát sinh và được thực thi một khi vật được trông đợi xuất hiện và có đầy đủ tính chất, phẩm chất như được giao kết (6).
ii. Hoặc, đó là hợp đồng may rủi, được người La Mã gọi là venditio spei (bán niềm hy vọng): các bên giao kết một hợp đồng kiểu lời ăn lỗ chịu, theo đó nghĩa vụ sẽ được thực thi...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top