my_angel4988

New Member

Download Tiểu luận Một số ý kiến sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự 2003 miễn phí





Bộ luật tố tụng hình sự quy định, người bào chữa có quyền, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; có mặt hỏi cung bị can; có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; có mặt trong những hoạt động điều tra khác (Điều 58 BLTTHS). Tuy nhiên, việc gặp bị can đang bị tạm giam là điều không đơn giản, phụ thuộc vào Điều tra viên có thời gian đi cùng luật sư vào trại giam hay không để điều tra viên viết Giấy trích xuất bị can, trong khi đó điều tra viên thì bận quanh năm. Việc gặp được bị can đang bị tạm giam đã hiếm, nhưng nếu người bào chữa gặp được bị can đang bị tạm giam thì bao giờ cũng đều có mặt điều tra viên ngồi cạnh để giám sát cuộc gặp gỡ này, mặc dù pháp luật không quy định. Còn những quy định khác của pháp luật tố tụng hình sự như Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để người bào chữa có mặt khi hỏi cung bị can; hay người bào chữa có quyền có mặt trong một số hoạt động điều tra khác v.v đều chỉ mang tính hình thức và không thực hiện được. Lý do cơ bản vẫn là Cơ quan điều tra không muốn người bào chữa có mặt trong các hoạt động điều tra vì họ sợ rằng, người bào chữa sẽ có những hành vi cản trở hoạt động điều tra dưới mọi hình thức. Đây có lẽ là hạn chế lớn nhất tính công khai, dân chủ trong hoạt động tố tụng tại giai đoạn điều tra.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

c xã hội chủ nghĩa trước đây, tại điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới hiện nay là hết sức cần thiết.
Phải thừa nhận, so với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã có những thay đổi về thủ tục tố tụng theo hướng tăng thẩm quyền cho các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện, xác định chính xác hơn về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, mở rộng hơn quyền của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự v.v… . Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 với những quy phạm pháp luật phản ánh tố tụng hình sự nước ta mang đậm dấu ấn của hình thức tố tụng thẩm vấn bằng việc xây dựng, sử dụng hồ sơ vụ án với các chứng cứ viết để xét xử là đặc trưng cơ bản; phương pháp tìm kiếm chứng cứ để buộc tội người bị nghi thực hiện tội phạm chủ yếu bằng việc bắt, tạm giữ, tạm giam để thiết lập hồ sơ vụ án chứ không phải có đầy đủ chứng cứ buộc tội rồi mới bắt, tạm giữ, tạm giam; các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền hạn lớn trong việc điều tra, truy tố, xét xử bằng việc có toàn quyền quyết định khởi tố, truy tố, xét xử người phạm tội ra trước toà án; mọi hành vi của những người tham gia tố tụng đều phải chịu sự cho phép của các cơ quan tiến hành tố tụng v.v… .
Tất nhiên, hình thức tố tụng thẩm vấn này có những ưu điểm nhất định, như tạo thế chủ động cho các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh tội phạm và người phạm tội nhằm góp phần quan trọng trong giữ gìn an ninh, trật tự đất nước. Nhưng nhược điểm cơ bản của hình thức tố tụng này là thời gian giải quyết vụ án thường kéo dài (dẫn đến vi phạm thời hạn tố tụng); chưa tạo cơ hội để những người tham gia tố tụng đưa ra được những chứng cứ chứng minh về việc mình bị buộc tội, xét xử; vai trò của luật sư, của những người tham gia tố tụng khác chưa được tôn trọng, bảo vệ và bị chi phối bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, nhất là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị hạn chế; việc tranh tụng thường chưa được bảo đảm dẫn đến tình trạng, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng chuẩn bị trước các quyết định của mình liên quan đến quá trình giải quyết vụ án v.v… . Điều này làm cho tố tụng hình sự nước ta mang tính hình thức, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 49), như hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người;… Nhược điểm lớn nhất trong BLTTHS 2003 là thiếu vắng những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tố tụng bảo đảm tính công khai, dân chủ; hay chưa có những quy phạm pháp luật điều chỉnh sự tranh tụng giữ bên buộc tội và bên bào chữa trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Cho nên có thể nói, BLTTHS năm 2003 có rất nhiều nội dung cần được bổ sung, sửa đổi theo hướng mở rộng tính công khai, dân chủ trong tố tụng hình sự. Do phạm vi của một bài viết hội thảo mà tác giả chỉ đề cập một số nội dung chính sau đây.
Thứ nhất, vấn đề liên quan đến luật sư và hoạt động của luật sư.
1. BLTTHS 2003 và Luật luật sư 2006 đều quy định rất rõ, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 11 BLTTHS); người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người thay mặt hợp pháp của họ lựa chọn (khoản 1 Điều 57 BLTTHS). Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự khi xuất trình đủ giấy tờ cần thiết, trong đó có giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Thời hạn cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư không quá ba ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 27 Luật luật sư). Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do (khoản 4 Điều 56 BLTTHS).
Tuy nhiên trong thực tế, việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư không phải là điều đơn giản. Theo phản ánh của nhiều luật sư, trong đó có ý kiến của nguyên Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội Phạm Hồng Hải gửi Ban Nội chính trung ương, thì các cơ quan tiến hành tố tụng, chủ yếu là Cơ quan điều tra, cản trở hoạt động của luật sư trong tố tụng hình sự. Sự cản trở này thể hiện từ việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư. Gần như 100% các trường hợp không bao giờ được cấp giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn 3 ngày, có trường hợp kéo dài 1 năm. Mặt khác, cơ quan điều tra đòi hỏi: giấy yêu cầu luật sư của khách hàng phải là của chính bị can chứ không phải của người thay mặt hợp pháp của bị can lựa chọn. Điều này dẫn đến, trong trường bị can đang bị tạm giam để điều tra thì làm sao luật sư có thể tiếp xúc để lấy được giấy yêu cầu luật sư từ chính bị can, mà phải thông qua Cơ quan điều tra. Nhiều trường hợp, sau khi thông qua Cơ quan điều tra thì luật sư thường nhận được câu trả lời là: bị can từ chối luật sư, hay bị can không có ý định mời luật sư, hay bị can đã nhận rã tội trạng của mình nên không mới luật sư v.v…, trong khi đó có đủ căn cứ xác định bị can muốn nhờ luật sư bào chữa cho mình. Việc có người bào chữa đối với bị can đang bị tạm giam trong giai đoạn điều tra đã là khó khăn thì làm sao có được người bào chữa đối với người bị tạm giữ, khi mà thời hạn tạm giữ, kể cả 2 lần gia hạn tạm giữ chỉ có 9 ngày.
Do vậy, trong Bộ luật tố tụng hình sự cần bổ sung theo hướng mở rộng hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận bào chữa, mà không bó hẹp chỉ 3 ngày và quy định rõ hơn việc cấp giấy chứng nhận bào chữa đối với bị can đang bị tạm giam. Ví dụ, sửa khoản 4 Điều 56 LTTHS là: “Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu r
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top