hoangdong14_01

New Member

Download Tiểu luận Một số ý kiến về việc sửa đổi Bộ luật Hình sự miễn phí





Các loại thẻ tín dụng, thẻ rút tiền. do.ngân hàng phát hành, ngân hàng cung cấp cho các khách hàng một tài khoản được mã hoá bằng các con số riêng cho từng chủ thể; chủ thẻ có mã số bí mật để sử dụng thẻ khi thanh toán, rút tiền. Để tạo ra thẻ thanh toán giả người phạm tội đã tìm được bí mật của những thẻ thanh toán thật gồm số tài khoản, mã số bí mật của chủ thẻ rồi ghi các dữ liệu đó lên một thẻ trắng, tạo ra một thẻ thanh toán như thẻ thật. Sử dụng các thẻ này, bọn tội phạm có thể thanh toán tại những nơi chấp nhận thẻ (nhà hàng, khách sạn, siêu thị.) hay rút tiền tại các máy rút tiền tự động. Việc sử dụng thẻ giả của bọn tội phạm làm cho chủ thẻ thật bị mất số tiền tương ứng (bị ngân hàng trừ tiền trên tài khoản).



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

tăng bằng lượng hàng và giá trị tiền mua hàng. Số tiền thuế giá trị gia tăng 5% trên hóa đơn được hoàn thuế Phong nhận 3,5% ; để lại công ty 1,5% trả cho người bán tôm không có hóa đơn. Công ty đã tiến hành theo thoả thuận, mục đích mua bán hóa đơn nêu trên là nếu có được 1,5% tiền thuế giá trị gia tăng trợ giá cho các đại lý sẽ làm tăng sức mua hàng của Công ty, tạo được nguồn hàng đưa vào sản xuất nhằm đáp ứng cho các hợp đồng xuất khẩu. Toàn bộ số tiền thuế giá trị gia tăng đã được Công ty lập thủ tục xin khấu trừ hoàn thuế và được hoàn thuế tổng số tiền là 3.606.671.501 đồng.
Khi sự việc bị phát hiện, Cục thức đã thu hồi lại toàn bộ số tiền 3.606.67 1.50 1 đồng là tiền hoàn thuế giá trị gia tăng đối với Công ty.
Trần Quang Chiêu, Nguyễn Tín Ngưỡng, Trần Văn Hoàng, Vương Trung Tuấn, Trương Việt Thù, Trương Vĩnh Thắng, Trần Thị Nguyệt đều bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội "tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả".
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 84120061HSST ngày 1 2-5-2006 và Bản án hình sự phúc thẩm số 1426/2006/HSPT ngày 21 -9-2006, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều áp dụng Điều 181 xử phạt các bị cáo Trần Quang Chiêu, Nguyễn Tín Ngưỡng, Trần Văn Hoàng, Vương Trung Tuấn, Trương Việt Thù, Trương Vĩnh Thắng, Trần Thị Nguyệt đều về tội "tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả".
Khi giám đốc vụ án này, Toà án nhân dân tối cao nhận xét: trong quá trình kinh doanh, vì lợi ích cục bộ của Công ty, Ban giám đốc Công  ty gồm: Trần Quang Chiêu, Nguyễn Tín Ngưỡng, Trần Văn Hoàng, Vương Trung Tuấn và một số người khác đã bàn bạc thống nhất dùng thủ đoạn gian dối là mua tôm của các cá nhân, doanh nghiệp không có hóa đơn thuế giá trị gia tăng, sau đó ghép vào hoá đơn thuế giá trị gia tăng của cơ sở kinh doanh Tạ Văn Kha do bị cáo Huỳnh Thanh Phong làm chủ rồi hợp thức hoá chứng từ mua tôm lập hồ sơ quyết toán nhận 5% tiền hoàn thuế giá trị gia tâng và đã chiếm đoạt được 3.606.671.501 đồng của Cục thuế. Số tiền này các bị cáo đã chi cho cơ sở không có hàng, nhưng có xuất hoá đơn thuế giá trị gia tăng 3,5% và chi cho những đại lý bán hàng nhưng không có hoá đơn thuế giá trị gia tăng 15%. Hành vi phạm tội của Huỳnh Thanh Phong, Trần Quang Chiêu và các đồng phạm lập hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng khống đã chiếm đoạt 3.606.671.501 đồng của Cục thuế có dấu hiệu của tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Vì các lẽ trên, tại Quyết định số 2912007/ HS-GĐT ngày 10-12-2007, Hội đồng Thẩm phán đã quyết định hủy cả bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.
Điều đáng lưu ý của vụ án này là trong quá trình giải quyết vụ án, ngay cả khi Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì các ý kiến đều cho rằng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nhưng việc định tội danh đều không thống nhất. Chúng tui cho rằng, trong trường hợp này, việc định tội danh là "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" hay "tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giả" đều có những điểm không hoàn toàn thoả đáng.
Ví dụ 2: Vụ làm giả cổ phiếu
Lý Hữu Hoàng bàn với Lâm Thu Hương về việc in cổ phiếu giả mang tên V5G (của công ty Việt Toàn Cầu để bán cho khách). Hoàng có nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch, soạn thảo nội dung, thiết kế mẫu cổ phiếu; Hương có trách nhiệm ký tên trên cổ phiếu và một số giấy tờ với tư cách là Tổng Giám đốc. Hoàng rủ Trần Thị Sen tham gia với tư cách là Chủ tịch điều hành và dùng chữ ký của Sen đã được lưu trên máy vi tính để in trên cổ phiếu; Hoàng hợp đồng với Võ Thị Trúc Linh để Linh in cổ phiếu.
Theo như kế hoạch, Hoàng soạn thảo thiết kế mẫu cổ phiếu, thư mời, thiệp mời, cáo bạch và gửi cho Võ Thị Trúc Linh để in ấn. Lâm Thu Hương ký chữ ký mẫu đưa cho Linh để in lên cổ phiếu, trực tiếp ký thư mời Thủ tướng Chính phủ và công văn gửi mời các cơ quan.
Linh đã in 95 quyển cổ phiếu (tổng số tiền theo mệnh giá ghi trên số cổ phiếu này là 95 tỷ Việt Nam Đồng) với 300 thiệp mời và 300 quyển cáo bạch. Trong quá trình giải quyết vụ án này đã có những quan điểm khác nhau khi xác định hành vi phạm tội của các bị can, bị cáo.
Quan điếm thứ nhất cho rằng: Các bị cáo bằng thủ đoạn gian dối: Giả danh, con dấu, chữ ký của công ty cổ phân Việt Toàn Cầu, phát hành cổ phiếu giả nhằm mục đích bán cổ phiếu giả để chiếm đoạt tiền; các bị cáo chưa chiếm đoạt được tiền vì đang trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội đã bị phát hiện và bắt giữ ngoài dự kiến của người phạm tội. Hành vi của các bị cáo phạm vào tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" nhưng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Tổng số tiền tính theo mệnh giá cổ phiếu là 95 tỷ đồng. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt 95 tỷ đồng theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Đây là quan điểm chính thức của các cơ quan tiến hành tố tụng khi điều tra, truy tố xét xử các bị cáo.
Quan điểm thứ 2 cho rằng: Các bị cáo không phạm tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Bởi lẽ, tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" có cấu thành vật chất; trong khi đó, toàn bộ số cổ phiếu được xác định là giả và chưa có đối tác cụ thể nào để giao dịch, mua bán; chưa có người bị hại. Việc kết luận các bị cáo chiếm đoạt 95 tỷ đồng là không có cơ sở Hành vi của các bị cáo cấu thành tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" theo quy định tại Điều 267 Bộ luật hình sự.
Quan điểm thứ 3 cho rằng: Cổ phiếu là loại giấy tờ có giá. Các bị cáo làm tàng trữ, vận chuyển và dự định lưu hành cổ phiếu giả nhằm bán cho người khác. Vậy hành vi của các bị cáo phạm vào tội "làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả theo quy định tại Điều 281 Bộ luật hình sự.
Nghiên cứu vụ án nêu trên, chúng tui có một số ý kiến như sau : cổ phiếu là loại giấy tờ có giá; mệnh giá cổ phiếu là 10.000 đồng nhưng giá trị giao dịch có thể khác 10.000 đồng. Trên thực tế có những cổ phiếu có giá tới 700.000  đồng, có cổ phiếu giá chỉ 8.000 đồng. Trong vì việc này, các bị cáo có hành vi làm giả con dấu tài liệu để nhằm làm giả giấy tờ có giá; mục đích cuối cùng là bán cổ phiếu và chiếm đoạt tiền của người khác; việc làm giả con dấu, tài liệu giấy tờ có giá giả chỉ là cách đã chiếm đoạt tiền của người khác. Tuy nhiên., các bị cáo không xác định cụ thể số tiền định chiếm đoạt là bao nhiêu; và thực tế cũng không thề xác định là có thể bán được bao nhiêu cổ phiếu, tiền của mỗi cổ phiếu là bao nhiêu. Bởi việc bán cổ phiếu dù là cổ phiếu thật cũng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thị trường biến động, doanh nghiệp phát hành không thể dự liệu hết các khả năng, rủi ro có thể xảy ra.
Theo chúng tôi, hành vi của Lý Hữu Hoàng, Lâm Thu Hương và đồng bọn là rất nguy hiểm cho xã hội, nhưng cả 3 ý kiến nêu trên đều c
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top