Download Tiểu luận Những nội dung cơ bản của Luật quốc tịch năm 2008 miễn phí
MỤC LỤC
PHÂN TÍCH NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TỊCH NĂM 2008
A. ĐẶT VẤN ĐỀ . .1
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề cơ bản trong pháp luật quốc tịch Việt Nam hiện hành.
1. Khái niệm quốc tịch .1
2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam từ năm 1945 đến 1998 1
3. Sự cần thiết sửa đổi luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 2
II. Những nội dung cơ bản của luật quốc tịch Việt Nam 2008.
1. Nguyên tắc một quốc tịch .3
2. Có quốc tịch Việt Nam .4
3. Nhập quốc tịch Việt Nam .5
4. Trở lại quốc tịch Việt Nam .6
5. Mất quốc tịch Việt Nam 6
6. Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi .7
7. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch 7
C.KẾT LUẬN .8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .9
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
2, tạo cơ chế đồng bộ thực hiện nguyên tắc một quốc tịch, giải quyết tồn tại về hai quốc tịch, tăng cường quản lí về quốc tịch và bổ sung các vấn đề mới chưa được quy định. Trước những đòi hỏi như vậy, tại kì họp thứ 3, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam 1998, có hiệu lực từ 01/01/1999.3. Sự cần thiết phải sửa đổi luật quốc tịch Việt Nam năm 1998.
Sau hơn 9 năm thực hiện, Luật quốc tịch 1998 đã thực sự đi vào cuộc sống, phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc tịch Việt Nam, cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài… Luật quốc tịch 1998 đã góp phần quan trọng vào việc hình thành mối quan hệ gắn bó giữa công dân Việt Nam với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Vậy vì sao cần ban hành luật mới thay thế Luật quốc tịch 1998?
Là bởi, Luật quốc tịch Việt Nam bên cạnh những mặt tích cực, cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, nguyên tắc một quốc tịch quy định tại Điều 3 là cứng nhắc, bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế, chưa thật phù hợp với nguyện vọng của kiều bào ta ở nước ngoài và thực sự khó khăn trong triển khai thực hiện trên thực tế.
Điều 3 Luật quốc tịch 1998 quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Tuy nhiên, do thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc này (cơ chế đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam khi đương sự chọn hay nhập quốc tịch nước ngoài) nên đã nảy sinh hệ quả là công dân Việt Nam định cư ở một số nước mà pháp luật của nước sở tại không bắt buộc phải thôi quốc tịch Việt Nam dẫn đến một số lượng đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài vừa có quốc tịch nước sở tại, vừa có quốc tịch Việt Nam. Thêm vào đó, trong khi Việt Nam quy định nguyên tắc xác định quốc tịch theo huyết thống thì luật quốc tịch một số nước lại xác định quốc tịch theo nơi sinh, sự xung đột pháp lý này cũng là lý do làm tăng thêm số người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch. Điều này đã làm cho các cơ quan nhà nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí bị bó tay khi giải quyết các vụ việc cụ thể có liên quan đến quốc tịch. Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch theo Luật quốc tịch 1998 thực sự chưa phản ánh đúng nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài là được gắn bó với quê hương nên không muốn bị mất quốc tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước sở tại.
Hai là, Luật quốc tịch 1998 chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi để thực hiện một chủ trương quan trọng là hạn chế tình trạng không quốc tịch ở nước ta.
Thực tế hiện nay số công dân nước ngoài, người không quốc tịch, người không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta là tương đối nhiều, việc giải quyết quốc tịch cho họ gặp rất nhiều khó khăn và trong nhiều trường hợp không thể giải quyết được. Ngoài ra, việc hoạch định lại biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng trong những năm qua cũng dẫn đến hệ quả là một bộ phận khá lớn dân cư dọc biên giới tuy đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Việt Nam. Lý do là, phần lớn trong số họ không có giấy tờ tuỳ thân để xác định tình trạng quốc tịch, trình độ văn hoá rất thấp thậm chí không biết chữ, điều kiện kinh tế lại khó khăn, do đó nếu cứ buộc họ làm thủ tục nhập quốc tịch theo đúng quy định của Luật quốc tịch 1998 là không khả thi.
Ba là, cơ chế quản lý nhà nước về quốc tịch còn bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Theo quy định của Luật quốc tịch 1998, có nhiều cơ quan khác nhau có thẩm quyền tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề quốc tịch, nhưng việc phân định trách nhiệm và quyền hạn có nhiều điểm chưa cụ thể, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ dẫn đến tình trạng chậm trễ trong giải quyết các việc về quốc tịch, chia cắt về thông tin, yếu kém về thống kê quốc tịch. Đến nay chưa lập được cơ sở giữ liệu quốc gia về quốc tịch là một thiếu sót lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch. Mặt khác, đối với những người Việt Nam định cư ở nước ngoài do thiếu cơ chế đăng ký quốc tịch nên thực sự chúng ta chưa nắm được tình trạng quốc tịch của hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài để có chính sách quản lý và bảo hộ.
Những nội dung cơ bản của Luật quốc tịch Việt Nam 2008.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 gồm 6 chương, 44 điều, cụ thể là:
Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12).
Chương II: Có quốc tịch Việt Nam (từ Điều 13 đến Điều 25)
Chương III: Mất quốc tịch Việt Nam (từ Điều 26 đến Điều 34)
Chương IV: Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi (từ Điều 35 đến 37)
Chương V: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quốc tịch (từ Điều 38 đến Điều 41)
Chương VI: Điều khoản thi hành (từ Điều 42 đến Điều 44)
Phân tích toàn bộ các chương và điều của Luật quốc tịch năm 2008, chúng ta thấy luật này có những nội dung cơ bản sau đây:
Nguyên tắc một quốc tịch
Cùng với việc khẳng định mọi cá nhân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có quyền có quốc tịch (Điều 2), Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 tiếp tục khẳng định nguyên tắc một quốc tịch đã được ghi nhận trong Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 và tại điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998.Việc làm này nhằm để đảm bảo tính xuyên suốt, truyền thống của nguyên tắc một quốc tịch, đồng thời khắc phục những mâu thuẫn trong Luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn. Chính vì vậy, so với 2 bộ luật trước, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 có sự khác biệt cơ bản là : Nếu như luật quốc tịch năm 1988 và 1998 được xây dựng trên nguyên tăc một quốc tịch triệt để thì Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 được xây dựng trên nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo.
Điều 4. Nguyên tắc quốc tịch
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp luật này có quy định khác.
So sánh với nguyên tắc “Công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam” của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.”(Điều 3) và “ Nguyên tắc một quốc tịch” của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” (Điều 3), có thể thấy nguyên tắc quốc tịch năm 2008 có sự mềm dẻo hơn rất nhiều.
Về mặt hình thức, nếu như ở Luật năm 1988 có ghi rõ ràng là “Công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam” thì đến Luật năm 1998 có sửa đổi thành “Nguyên tắc một quốc tịch” và đến năm 2008 thì ...